Thư Ngỏ

Blog Chúng Tôi Muốn Tự Do đã được lưu trữ.

Đây là blog thứ hai với tên Chúng Tôi Muốn Tự Do số 2.

Hoàng Ngọc An

Posted in Linh Tinh | Leave a comment

Bằng Phong Đăng Văn Âu- Gửi Loan Phan, những việc làm hữu ích củ a Tướng Kỳ mà tôi chứng kiến ((Tựa do HLC đặt) -May 4, 2024

LGT: khi T Thiệu độc cử, tôi đang học ĐH Khoa Học. Tôi không đi bầu để phản đối vụ độc cử. Tôi không cảm tình với đôi mắt ông Thiệu. Nó cho thấy một con người rất mưu mô thủ đoạn. Qua những “true fact” mà Bằng Phong ĐVA viết dưới đây về Nguyễn Cao Kỳ (Dẹp PG Ấn Quang, xử tử Tạ Vinh (đầu cơ gạo), CT giúp dân nghèo, vụ xe bus, vụ biến động miền Trung, tổ chức bầu cử QH lập hiến vào 1966, Tổ chức bầu cử, khai sinh nền Đệ Nhị Cộng Hòa, nhường ứng cử Tổng Thống cho Thiệu vào 1967) cho thấy ngày đó Thiệu là ai, Kỳ là ai . Đáng tiếc là sau này, Kỳ đã có những suy nghĩ gì đó (ví dụ như cảm thấy vô vọng cho VN nên nghĩ cách phải theo chính sách hòa hợp của Mỹ nghĩa là biến đổi cs dần dần từ đỏ sang hồng) nên đã về VN và có những câu tuyên bố 1,2..

Hoàng Lan Chi

THƯ VIẾT CHO LOAN PHAN VỀ TƯỚNG KỲ.

Bằng Phong Đặng văn Âu.

https://khongquanc130.blogspot.com/2024/04/thu-ngo-gu-nguyen-ac-xuan-bang-phong.html

Dear Loan,

Ở ngoài Huế, trong dân gian có câu: "Núi Ngự Bình trước tròn, sau méo. Sông An Cựu nắng đục mưa trong".

Nghĩa là ai đứng phía trước núi Ngự Bình, thì thấy núi Ngự Bình tròn. Nhưng ai đứng phía sau núi Ngự Bình thì thấy núi Ngự Bình … méo!

Cũng có một câu nói khác: "Mấy ông mù sờ voi!" để nói về mấy ông mù cứ làm như biết rất rõ ràng về con voi, nhưng kỳ thực chẳng biết gì cả, chỉ nói lung tung.

Anh là người phục vụ trong Không Quân, nhưng anh không phải là người làm việc trực tiếp dưới quyền ông Tướng Kỳ. Anh chẳng nhận được bất cứ mưa móc gì của ông Kỳ để tỏ ra thiên vị. Ông Kỳ người Sơn Tây, anh gốc Nghệ An, chẳng có dây mơ rễ má dòng họ gì với ông Kỳ, cũng chẳng phải là đồng hương để bảo rằng phủ bênh phủ, huyện bênh huyện. Nhưng anh không giống những quân nhân khác ở chỗ anh có óc quan sát và có khả năng suy luận, nên khi thấy ông Kỳ bị tiếng oan của dư luận, thì anh viết thế thôi!

Tuy anh chỉ là một sĩ quan cấp Thiếu tá, nhưng anh biết nhiều nhân vật chính trị, đảng phái và Tướng lĩnh. Bởi vì anh có ông anh rể là Thủ tướng Phan Huy Quát và ông anh thúc bá là Bác sĩ Nghị sĩ VNCH Đặng văn Sung, nên anh biết nhiều chuyện liên quan đến lịch sử vào thời buổi cực kỳ nhiễu nhương.

Khi Quốc trưởng Phan Khắc Sửu và Thủ tướng Phan Huy Quát không thể giải quyết mối bất hòa, hai ông trao quyền lãnh đạo đất nước cho Quân Đội.

Lúc bấy giờ, Trung tướng Nguyễn văn Thiệu đương là Phó Thủ tướng, kiêm Tổng trưởng Quốc Phòng, triệu tập cuộc họp toàn quân tại Câu Lạc Bộ Sóng Thần của Thủy Quân Lục Chiến, gồm có các Tướng Quân Binh Chủng và các Tư lệnh Sư Đoàn. Tướng Kỳ 3 lần đề nghị Tướng Thiệu đảm đương chức vụ Thủ tướng, vì ông Thiệu là đương kim Phó Thủ tướng, nhưng cả ba lần Tướng Thiệu đều từ chối. Chẳng phải Tướng Thiệu không thích chức Thủ tướng, nhưng ông sợ tình hình quá khó khăn, không thể đảm đương nổi, nên không dám nhận. Sau đó, Tướng Kỳ đề nghị Tướng Nguyễn Chánh Thi, nhưng Tướng Thi cũng không dám nhận.

Sau giờ giải lao, Tướng Thiệu và Tướng Thi bàn bạc nhau và đẩy Tướng Kỳ ra làm Thủ tướng. Lúc hữu sự mới biết ai anh hùng!

Vì tinh thần trách nhiệm, Tướng Kỳ nhận lời; chứ không phải ông có mưu mô, phe cánh với ai để tranh giành chức Thủ tướng.

Mặc dầu, chưa từng lãnh đạo Đất Nước, nhưng Tướng Kỳ đã làm những việc mà chắc chắn không một ông Tướng nào, một ông chính trị gia nào có bản lĩnh lãnh đạo và mưu lược có thể so sánh ngang với Tướng Nguyễn Cao Kỳ (lúc mới 35 tuổi).

1/ Ông Kỳ đã dẹp xong các cuộc xuống đường của phe Phật giáo Ấn Quang do Trí Quang lãnh đạo. Từ đó chấm dứt nạn đảo chánh, nạn lên đường xuống đường. Tinh thần chiến đấu của quân sĩ lên rất cao. Nhất là ông Kỳ cùng anh em Khu Trục thi hành những phi vụ Bắc Phạt. Ông Kỳ chọn ngày 19 tháng 6 làm Ngày Quân Lực để đánh dấu thời điểm ông đại diện Quân đội nhận lãnh trách nhiệm bảo vệ Miền Nam. (Ngày nay các Hội đoàn kỷ niệm Ngày Quân Lực, 19 Tháng 6 rất rầm rộ, nhưng miệng vẫn chửi ông Kỳ để tỏ ra ta đây anh hùng!)

2/ Ông Kỳ đích thân giải quyết nạn đầu cơ tích trữ gạo, đường, sữa cho trẻ em, do mấy Chú Ba Tàu đầu nậu ở Chợ Lớn lũng đoạn, mà ông Tổng trưởng Kinh tế Âu Trường Thanh đành bó tay.

3/ Ông Kỳ xử tử hình Tạ Vinh về tội tham nhũng.

4/ Ông Kỳ hữu sản hóa dân nghèo bằng cách bán trả góp xe taxi, xe Lambretta ba bánh cho dân được làm chủ … Xây nhiều khu gia binh cho lính và sử dụng miếng đất trống cạnh phi trường Tân Sơn Nhất cấp cho các sĩ quan thâm niên.

5/ Giải quyết nạn xe buýt thuộc quyền quản trị của Chính quyền, năm nào cũng thua lỗ, xe hỏng phải hủy bỏ nhiều chuyến. Nhưng sau đó xe buýt chạy đều, đúng giờ và Chính phủ không phải bù lỗ.

6/ Dẹp Biến Động Miền Trung do Tướng Nguyễn Chánh Thi và Trí Quang toa rập nhau làm loạn một cách êm thấm, không có đổ máu. Liên Thành đề cao Tướng Loan trong cuốn sách "Biến Động Miền Trung", nhưng nếu không có sự lãnh đạo quyết đoán như Tướng Kỳ, thì Tướng Loan chẳng làm được gì, bởi vì mỗi lần gặp sự khó xử, Tướng Loan đều xin chỉ thị từ Tướng Kỳ.

Nếu không có Tướng Kỳ lãnh đạo đất nước vào thời điểm ấy, thì Miền Nam đã mất từ năm 1966. Tướng Thi thấy Tướng Kỳ điều hành đất nước một cách dễ dàng, thì đâm ra tiếc, vì đã không nhận lời làm Thủ tướng do Tướng Kỳ đề nghị năm 1965. Tướng Thi hết phản Tổng thống Diệm đến phản Tướng Kỳ. Nhưng sang Mỹ, Tướng Thi nhờ sử gia Chánh đạo Vũ Ngự Chiêu viết cuốn Hồi Ký "Một Trời Tâm Sự" để khoe tiểu sử "lẫm liệt" của mình. Trong Hồi Ký, Tướng Thi viết rằng ông không làm Chính trị, mặc dầu chức Tư Lệnh Quân Đoàn kiêm nhiệm chức Đại Biểu Chính Phủ, có quyền bổ nhiệm Tỉnh trưởng, mà ông Thi bảo ông không làm chính trị, là quá sức khôi hài.

7/ Sau khi dẹp loạn ở Miền Trung xong, ông Kỳ tổ chức bầu cử Quốc Hội Lập Hiến năm 1966. Sang năm 1967, Tướng Kỳ tổ chức bầu cử Tổng thống, Thượng Viện, Hạ Viện để khai sinh nền Đệ Nhị Việt Nam Cộng Hòa. Chính ông Kỳ là cha đẻ nền Đệ Nhị Cộng Hòa. Tổng thống Ngô Đình Diệm là cha đẻ nền Đệ Nhất Cộng Hòa.

8/ Năm 1967, Hội Đồng Quân Lực họp để lấy quyết định chọn Tướng Thiệu (Chủ tịch Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia) hay Tướng Tướng Kỳ (Chủ tịch Ủy ban Hành Pháp Trung Ương) làm đại diện Quân Đội ra tranh chức Tổng thống với mấy ứng cử viên Dân sự. Thật ra các Tướng lĩnh đã chọn Tướng Kỳ, nhưng bày đặt tổ chức Đại Hội cho đúng "thủ tục hành chánh" (formalité). Sở dĩ các Tướng chọn ông Kỳ là vì ông Kỳ đã tả xung hữu đột, bình định được tình hình, còn Tướng Thiệu thì chỉ lo đi lập đảng Dân Chủ để gây thanh thế cá nhân. Khi Đại tướng Cao văn Viên mở cửa phòng họp Đại Hội, ra mời hai ông Tướng vào nghe quyết định của Hội Đồng Quân Lực, Tướng Thiệu bỗng gục xuống và khóc (rất giống Lưu Bị đóng kịch với Tào Tháo). Ông Kỳ yêu cầu Đại Hội không cần đọc quyết định, ông nhường cho Tướng Thiệu đại diện Quân Đội đứng ra tranh cử Tổng thống và ông trở về Không Quân. Tướng Thiệu nhào tới ôm Tướng Kỳ để bày tỏ lòng biết ơn. Cả Đại Hội vỗ tay hoan hô nhiệt liệt. Tướng Hoàng Xuân Lãm, Tư Lệnh Vùng I, đứng lên tuyên bố nguyên văn: "Hoan hô tinh thần đoàn kết Quân Đội của anh Kỳ đã có hảo ý nhường cho anh Thiệu. Nhưng anh Kỳ đã thương Quân Đội thì hãy thương cho trót. Tôi yêu cầu anh Kỳ đứng Phó cho anh Thiệu thì mới chắc ăn. Nếu anh Kỳ không chấp nhận lời yêu cầu của tôi, thì tôi xin trả lại cặp lon Trung Tướng này cho Quân Đội và tôi trở về đi dạy học”. Cả Đại Hội vỗ tay một lần nữa. Thế là ông Kỳ phải chấp nhận đứng Phó cho ông Thiệu.

Trung Tướng Nguyễn Đức Thắng không tin ông Thiệu, nên đề nghị thành lập Quân Ủy Trung Ương, giống như Bộ Chính trị Cộng sản, để bắt buộc Trung tướng Thiệu phải thi hành chính sách do Quân Đội chỉ đạo. Tướng Kỳ làm Chủ tịch Quân Ủy, các Tướng Tư Lệnh Quân Binh Chủng và các Tướng Tư lệnh Quân Đoàn, Sư Đoàn là thành viên. Tướng Thiệu cũng chỉ là thành viên trong Quân Ủy. Nói thực, lúc bấy giờ Tướng Thắng có đề nghị điều gì thì Tướng Thiệu cũng đồng ý cả hai tay.

Quả nhiên, “Liên Danh Quân Đội Thiệu Kỳ” chỉ thắng 35% số phiếu cử tri. Liên danh Trương Đình Dzu về nhì, suýt soát tỷ lệ thắng cử của Liên danh Quân Đội. Nếu không có đương kim Thủ tướng Nguyễn Cao Kỳ đứng phó để có phiếu của Quân Đội, chưa chắc ông Thiệu đã được làm Tổng thống.

Trưởng lưới Tình Báo CIA ở Saigon là William Colby nghe tin Tướng Kỳ nhường cho Tướng Thiệu làm Tổng thống, tức tốc lái xe vào Tân Sơn Nhất gặp Tướng Kỳ để yêu cầu Tướng Kỳ rút lại quyết định, bởi vì ông ta đã được lệnh của Tòa Bạch Ốc, Bộ Ngoại giao và Pentagon phải ủng hộ Tướng Kỳ đắc cử Tổng thống bằng mọi giá. Nhưng Nho giáo đã đào tạo Tướng Kỳ thành một ông "Quân Tử Tàu" nhất ngôn. Ông Kỳ cương quyết không thay đổi quyết định!

Sau chừng nửa giờ thuyết phục, William Colby nhận thấy không thể lay chuyển anh Đồ Nho gàn dở, đành nhún vai bỏ ra về. Nhân chứng của vụ việc này là Thiếu tá Nguyễn Quốc Phiên (biệt hiệu Phiên Rách) hiện đang sống tại Orange County. (Anh có để địa chỉ Email của anh Phiên trong cái list của Email này)

Con người thủ đoạn của Tướng Nguyễn văn Thiệu là phản bội và láu cá vặt:

Thứ nhất, được Tổng thống Ngô Đình Diệm cử chức Tư lệnh Sư Đoàn 5 tại Bến Cát, Bình Dương gần Thủ đô, để trong trường hợp Saigon có đảo chánh, thì ông Thiệu đem quân về cứu giá. Tháng 11, ngày 1 năm 1963, có cuộc đảo chánh, Đại tá Nguyễn văn Thiệu mang quân về Saigon, nhưng án binh bất động để chờ xem bên nào thắng thì theo.

Thứ hai, ông Thiệu tuyên thệ vào đảng Đại Việt, rồi sau đó bỏ đảng để đi lập đảng Dân Chủ.

Thứ ba, ông Thiệu vội vàng ký vào biên bản chấp nhận làm thành viên Quân Ủy Trung Ương, nhưng sau 3 tháng làm Tổng thống thì ký lệnh giải tán Quân Ủy Trung Ương để một mình quyết định vận mạng đất nước. (phản phúc)

Thứ tư, tới năm 1971, lặng lẽ chọn ông Trần văn Hương làm Phó Tổng thống mà không cho ông Kỳ hay biết. Tổng thống Thiệu sai ông Phụ tá Nguyễn văn Ngân mua chuộc các dân cử gia nô ở Hạ Viện và Thượng Viện làm luật buộc ai muốn ra tranh cử Tổng thống thì phải có 100 chữ ký của dân cử. ( Hoàng Lan Chi viết: đây là cái luật vô cùng cà chớn. Ai cũng biết đa số dân cử dễ bị mua chuộc nhất là dân cử ở các tỉnh lẻ) Tới phút chót, sau khi ông Thiệu có đủ 100 chữ ký của dân cử giới thiệu để tranh cử, thì ông Thiệu mới cho ông Kỳ biết ông đã chọn ông Trần văn Hương. Ông Thiệu là một nhà lãnh đạo lật lọng và láu cá mà không biết ngượng. Tướng Thiệu đã từng tuyên bố một câu đáng để đời: "Làm Chính trị là phải lì", tức là bất chấp dư luận, không thèm xấu hổ hay lòng tự trọng! Ông Thiệu độc diễn năm 1971 là cái cớ để cho Hoa Kỳ bỏ rơi Việt Nam Cộng Hòa.

Có điểm quan trọng này khiến anh kính phục tư cách của ông Kỳ. Năm Mậu Thân 1968, Việt Cộng tấn công Saigon, ông Thiệu về quê vợ ở Mỹ Tho ăn Tết. Phó Tổng thống Kỳ phải đứng ra chỉ huy các Tướng lĩnh điều động các đơn vị Quân Đội phản công và thành lập Nhân Dân Tự Vệ để bảo vệ các phường. Đáng lý ra, Tướng Thiệu trong tư cách Tổng Tư Lệnh Quân Đội phải bay về Saigon để bảo vệ Dinh Độc Lập và Thủ Đô. Nhưng ông Thiệu cứ ở lì tại Mỹ Tho.

1/ Ông Kỳ phải ra lệnh một đơn vị Bộ Binh lo phòng thủ tư gia của bà Thiệu để bảo vệ sinh mạng của ông Thiệu.

2/ Trung tá Phó Quốc Trụ và Trung tá Lê Ngọc Trụ đề nghị ông Kỳ hất ông Thiệu khỏi chức Tổng thống và đưa ông Kỳ lên làm Tổng thống. Ông Kỳ quắc mắt, mắng: "Tôi không phải là thằng Tướng bẩn, nhân cơ hội nước loạn để chiếm ngôi. Tôi cấm các anh không được phép đề nghị phi pháp.

3/ Được nhiều lần gần gũi ông Kỳ, nhưng anh chưa một lần nào nghe ông Kỳ tỏ ra hối tiếc vì đã nhường chiếc ghế Tổng thống cho ông Thiệu.

Trong lịch sử nước ta, chỉ có Đức Trần Hưng Đạo không vâng lời Cha là Trần Liễu thoán đoạt ngôi vua Trần Thái Tông. Ngoài ra, các triều đại khác đều có chuyện tranh bá đồ vương, có khi thanh toán nhau rất dữ dội. Thời nay, chỉ có Nguyễn Cao Kỳ đã mắng thuộc hạ không được xúi giục ông tạo phản. Hành động trượng phu như vậy, không đáng cho chúng ta kính phục hay sao?

Cho nên, anh vẫn đánh giá ông Kỳ là bậc trượng phu hiếm có, dù thiên hạ nói xấu ông đến cỡ nào. Loan đã đến nhà anh thì thấy anh thờ ông Tướng Kỳ trên bàn thờ đấy thôi! Anh thờ một người có nghĩa khí, có tinh thần “huynh đệ chi binh” và lòng yêu nước cao độ, rất xứng đáng bậc chính nhân quân tử mà anh cố gắng noi theo.

Thiên hạ viết báo "chửi" anh rất nặng lời, nhưng anh im lặng, vì anh biết dân Việt Nam có máu bạc bẽo, bất công, chỉ nghe hơi nồi chõ, chẳng cần biết ất giáp gì, chỉ biết chửi cho sướng miệng.

Nếu không có ông Kỳ dẹp Biến Động Miền Trung, thì làm gì có nền Đệ Nhị Việt Nam Cộng Hòa? Làm gì có ông bà nào có tước hiệu Dân Biểu với Nghị sĩ? Và làm gì có những ông bà bác sĩ trí thức xuất thân từ trường Đại Học Y Khoa Huế?

À, anh quên điểm này. Năm 1974, Tướng Thiệu còn bỏ tiền ra mua các Dân Biểu, Nghị sĩ “gia nô” làm tu chính án sửa luật Hiến Pháp để cho phép Tổng thống Thiệu ra tranh cử nhiệm kỳ III vào năm 1975. Mặc dù tình hình đất nước đang trong cơn hấp hối! Điều đó đủ thấy ông Thiệu quá sức tham quyền, nên không thấy nguy cơ mất nước đang ở trước mắt!

Loan thân mến,

Nếu Trời cho anh còn sức khỏe, anh sẽ viết về Tướng Kỳ một cách đầy đủ hơn, nhiều chi tiết lý thú hơn, khiến Loan cũng phải cảm phục.

Loan hãy tin anh đi! Theo chỗ anh biết, trong tất cả những anh em Không Quân các cấp, chỉ có anh là người dám đấu lý với Tướng Kỳ và dám công khai đứng ra bênh vực Tướng Kỳ. Tướng Kỳ về Việt Nam không phải để hòa hợp hòa giải với Việt Cộng như sự cáo buộc của bọn Việt Tân. Ông Kỳ về Việt Nam theo yêu cầu của Tổng thống George Bush (Con) thuyết phục Việt Cộng đi theo Mỹ để khỏi bị Hán Hóa. Anh sẽ viết về cuộc tranh luận giữa ông Kỳ và anh trong vụ này cho Loan đọc. Chỉ có anh là người dám đấu lý với Tướng Kỳ vì anh có lý lẽ để phản biện. Hầu hết những anh em Không Quân khác đều ngồi nghe ông Kỳ "thuyết pháp" mà thôi. Loan từng đọc nhiều bài viết của anh, chắc Loan cũng đã thấy anh có sự hiểu biết để thảo luận vấn đề đất nước với bất cứ ai.

Chúc Đổng và em dồi dào sức khỏe.

Thân ái,

Anh Âu.

Posted in Linh Tinh | Leave a comment

Quốc Hận- Xin quý ông bà chống cộng nhưng ủng hộ Biden hãy dành 10 phút để đọc bài này ( (Tựa do HL C đặt) ) – Vũ Linh ( Biden và chuyện VNCH mất nước) -April 29, 2024

Vũ Linh

BÀI 331: BIDEN VÀ CHUYỆN VNCH MẤT NƯỚC

Hoàng Lan Chi viết: xin quý ông bà ủng hô DC cố dành 10 phút xem vì với chứng cớ rành rành là Tân TNS Biden đã tham gia tất cả các buổi có hại cho VNCH ra sao:

Trích Vũ Linh:

-Trong 4 năm đầu của TT Nixon (1969-1972), thượng viện Mỹ đã biểu quyết tổng cộng 80 lần (trung bình 5 lần mỗi tam cá nguyệt) để trói tay hay cấm đoán Nixon trong các quyết định đánh CSBV, hay đòi hỏi Nixon phải chấm dứt chiến tranh, rút Mỹ ra khỏi Nam VN. ( Hoàng Lan Chi viết: quý ông bà cứ google sẽ có chứng cớ vì là sử liệu nhé. Đừng nói là ô Vũ Linh chỉ nói mà không chứng cớ )

– Trong hai năm đầu, khi TT Nixon còn đó, ông này cố gắng bằng mọi cách chặn đứng những vi phạm hòa ước thô bạo này của CSBV. Nhưng mọi cố gắng của ông đều bị phe DC trong thượng viện chống đối kịch liệt và ngăn cản tối đa, khi thượng viện liên tục biểu quyết trói tay Nixon. Từ luật cấm đánh qua Căm Pu Chia tới cấm thả bom Lào, tới cấm đánh bom Bắc Việt,… Trong tất cả những biểu quyết trói tay Nixon đó, tân thượng nghị sĩ Joe Biden đã không vắng mặt bất cứ một lần nào. Luôn luôn có mặt để biểu quyết chống mọi nỗ lực cứu miền Nam của Nixon, kể cả tất cả mọi biểu quyết cắt giảm viện trợ quân sự hay cả kinh tế cho VNCH. Nghĩa là ngay cả cái mà sau này được gọi là ‘một khoảng cách khỏi mất mặt’ -decent interval- cho Mỹ, đám nghị sĩ DC trong đó có Joe Biden cũng nhất quyết không cho xẩy ra, mà chỉ muốn tháo chạy cho nhanh, rút cho lẹ, dân Việt sống chết mặc bay. ( Hoàng Lan Chi viết: quý ông bà cứ google sẽ ra sử liệu. Đó là chứng cớ nhé)

Và đám nghị sĩ DC trong đó có TNS Joe Biden đã thành công vẻ vang khi lính VNCH hết súng, hết đạn, hết xăng, hết đánh VC được, và thảm bại trong 55 ngày.

Ngưng trích Vũ linh

Bài của Vũ Linh:

LỜI MỜ ĐẦU: Bài viết dưới đây đã được đăng năm ngoái, ngày 28/4/2023. Tuần này xin phép được đăng nguyên văn lại vì cả bài vẫn còn đầy đủ ý nghĩa, cũng như là bằng chứng cụ thể nhất về vai trò của Biden trong việc chúng ta mất nước.

Posted in Linh Tinh | Leave a comment

HLC-Ngũ Hổ Tướng tuẫn tiết, Trang Sử Đẹp Nhất Thời Đại Thế Giới- Thế hệ 1 với Gìn Vàng GIữ Ngọc- April 29, 2024

Hoàng Lan Chi

Ngũ Hổ Tướng tuẫn tiết, Trang Sử Đẹp Nhất Thời Đại Thế Giới

Người VNCH hãnh diện với trang sử ngũ hỗ tuẫn tiết

Ngũ hổ: Tướng Lê Văn Hưng, Nguyễn Khoa Nam, Phạm Văn Phú, Lê Nguyên Vỹ, Trần Văn Hai.

Trải dài giòng lịch sử của VN đã có rất nhiều tấm gương oanh liệt. Từ Hai Bà Trưng nhảy xuống giòng Hát Giang tự vẫn, rồi Phạm Hồng Thái với Tiếng Bom Sa Diện khi ông nhảy xuống giòng Châu Giang tự vẫn, và 1975 thì ngũ hổ tự sát trong cuộc chiến quốc cộng Từ ngàn xưa, thấm nhuần đạo lý cha ông nên những người trai của đất nước đã luôn thi hành nghĩa vụ làm trai. Khi quốc gia bị xâm chiếm thì hàng hàng lớp lớp trai hùng đã lên đường ra chiến trường. Họ đã để lại sau lưng gia đình yêu dấu từ cha mẹ, vợ con, anh chị em và thậm chí cả người yêu. Và đau đớn thay biết bao người đã ngã gục ở tuổi thanh xuân.

Trở lại với Ngũ Hổ. Tất cả ngũ hổ đều là những vị Tướng của VNCH. Điều đó có nghĩa là các ông đã chọn binh nghiệp là lẽ sống và đã tận tụy hết mình trong 20 năm cuộc chiến khốc liệt chống cộng sản. Những thành tích lừng lẫy, những chiến công, những huy chương sáng chói trong sự nghiệp. Thế nhưng những người trai hùng ấy đã không bỏ quê hương, không bỏ người lính để ra đi khi Mỹ sẵn sàng di tản họ. Họ đã chiến đấu đến giây phút cuối cùng và khi Dương Văn Minh ra lịnh đầu hàng thì họ đã tuẫn tiết, không để rơi vào tay giặc.

Từ gương Phạm Hồng Thái 1924 đến 1975 là 51 năm. Sau 51 năm, lịch sử tái diễn với một trang sử thật hào hùng nhưng cũng thật đẫm lệ. 5 vị tướng đã tự sát bằng súng, bằng thuốc độc để không rơi vào tay cộng sản. Cả một đời trai dâng cho núi sông và phút cuối là tính mạng mình. Ôi, còn gì đẹp hơn, hào hùng hơn, khí phách hơn. Tuổi đời của các vị tướng tuẫn tiết hầu hết chưa tới 50. Quả là một trang sử đẹp nhất thế giới thời cận đại.

Trên thế giới, không có quốc gia nào có đến 5 vị tướng tuẫn tiết khi chiến tranh kết thúc cả. Người VNCH phải hãnh diện với điều đó

Thế Hệ Một với Gìn Vàng Giữ Ngọc

30 Tháng Tư, tưởng nhớ Ngũ Hổ Tướng, thế hệ Một có nhiệm vụ Gìn vàng Giữ Ngọc để truyền lại cho thế hệ sau. Những gia sản ngọc ngà đó không chỉ là văn hóa của VN mà còn là lịch sử. Một giòng lịch sử có thể nói là oai hùng nhất thế giới vì kể từ khi lập quốc, VN đã phải chống chọi với một quốc gia láng giềng khổng lồ luôn muốn nuốt chửng nhưng VN vẫn đứng vững vì như nhạc sĩ du ca Nguyễn Đức Quang từng viết “Giống da vàng này là VUA ĐẤU TRANH”.

Sự tranh đấu không ngừng nghỉ của giòng máu VN đã khiến chúng ta xây dựng được những tổ chức cộng đồng hải ngoại ngày nay, và đã đóng góp cho quốc gia sở tại nhiều nhân tài nhưng đồng thời vẫn gìn giữ sắc thái riêng. Một trong những sắc thái đẹp nhất mà chúng ta nhắc nhở mỗi năm vào Tháng Tư, đó là DANH DỰ-TỔ QUỐC-TRÁCH NHIỆM của Quân Lực VNCH mà Thế Hệ Một cần khắc vào tâm trí thế hệ sau.

Hoàng Lan Chi

29/4/2024

Posted in Linh Tinh | Leave a comment

Vương Trùng Dương- Tưởng nhớ nhà văn Linh Bảo -April 26, 2024

TƯỞNG NHỚ NHÀ VĂN LINH BẢO, VĨNH BIỆT “MÂY TẦN”

Vương Trùng Dương

Hoàng Lan Chi giới thiệu : tôi thích văn Linh Bảo vì có lẽ tôi thích “văn Tự Lực Văn Đoàn”. Nó nhẹ nhàng, giản dị, dễ hiểu, trong sáng mà rất “cao cấp”. Nó không như “bí hiểm kiểu Thanh Tâm Tuyền”. Nó không lung tung như Nguyễn Thị Hoàng trong Vòng Tay Học Trò. Cá nhân tôi rất ghét kiểu viết văn, thơ của hai người này. Trích đoạn này của Linh Bảo. Thật ngậm ngùi. Đúng là trên đời có những loại người như thế. Họ coi cái ăn quá lớn. Họ coi đồng tiền quá to. Họ không có lòng tư bi. Thầy TPH nói những người thuộc loại này, kiếp sau sẽ rất nghèo!! (cười). Trích Linh Bảo “Trong đoạn trong Tết Mỹ: “Tôi ăn Tết đầu tiên ở Mỹ với “bà cô các cháu”. Bà chị sang Mỹ từ lâu. Chồng chết, bà sống một mình trong tòa nhà hai tầng. Tầng trên đẹp đẽ sang trọng; tầng dưới – hay đúng hơn là nhà hầm – có một phòng tắm, chỗ để máy giặt máy sấy, một cái tủ lạnh thứ hai để đồ ăn tích trữ và một cái giường cũ. Tôi phải tha hai con đến nhà bà trong bước đầu tiên để chờ thẻ di trú, và cũng để cho phải phép. Mình đến cũng chả ai hoan nghênh, nhưng nếu không đến trước thì sẽ bị giận suốt đời.Sau bữa cơm Tết đúng nghi thức, bà lùa ba mẹ con xuống phòng dưới ngủ. Phòng sát mặt đất, sàn xi-măng, lại không có sưởi, nên lạnh buốt. Tôi không ngủ được, lên cầu thang định tìm nước nóng uống thì cửa cầu thang đã khóa trái lại bên trên. Định mở tủ lạnh xem có gì uống được không, thì vừa nhìn đến, tôi bỗng ngẩn người ra.Cái tủ lạnh, lúc chiều hai con bé tò mò mở ra xem, tôi nhìn thoáng thấy bên trong đầy một tủ đào. Có lẽ bà chị mua sỉ nguyên cả thùng nên để dưới này cho khỏi chật tủ trên. Bây giờ, tôi thấy một sợi dây xích to bằng ngón chân cái buộc quanh, lại có khóa xích lại ở cửa tủ cẩn thận.

Tôi không thể nhịn được cười, nghĩ thầm đến cuốn sách tên là “Một Nghìn Lẻ Một Cách Làm Nhục Kẻ Khác”. Nếu sách này tái bản, tôi xin ghi thêm cái mục xích khóa tủ lạnh khi có bà con đến thăm và ở lại) Ngưng trích

Cầu mong nhà văn Linh Bảo được an bình ở thế giới bên kia

Hoàng Lan Chi

TƯỞNG NHỚ NHÀ VĂN LINH BẢO, VĨNH BIỆT “MÂY TẦN”

Vương Trùng Dương

Hoàng Lan Chi viết: tôi thích văn Linh Bảo vì có lẽ tôi thích “văn Tự Lực Văn Đoàn”. Nó nhẹ nhàng, giản dị, dễ hiểu, trong sáng mà rất “cao cấp”. Nó không như “bí hiểm kiểu Thanh Tâm Tuyền”. Nó không lung tung như Nguyễn Thị Hoàng trong Vòng Tay Học Trò. Cá nhân tôi rất ghét kiểu viết văn, thơ của hai người này. Trích đoạn này của Linh Bảo. Thật ngậm ngùi. Đúng là trên đời có những loại người như thế. Họ coi cái ăn quá lớn. Họ coi đồng tiền quá to. Họ không có lòng tư bi. Thầy TPH nói những người thuộc loại này, kiếp sau sẽ rất nghèo!! (cười). Trích Linh Bảo “Trong đoạn trong Tết Mỹ: “Tôi ăn Tết đầu tiên ở Mỹ với “bà cô các cháu”. Bà chị sang Mỹ từ lâu. Chồng chết, bà sống một mình trong tòa nhà hai tầng. Tầng trên đẹp đẽ sang trọng; tầng dưới – hay đúng hơn là nhà hầm – có một phòng tắm, chỗ để máy giặt máy sấy, một cái tủ lạnh thứ hai để đồ ăn tích trữ và một cái giường cũ. Tôi phải tha hai con đến nhà bà trong bước đầu tiên để chờ thẻ di trú, và cũng để cho phải phép. Mình đến cũng chả ai hoan nghênh, nhưng nếu không đến trước thì sẽ bị giận suốt đời.Sau bữa cơm Tết đúng nghi thức, bà lùa ba mẹ con xuống phòng dưới ngủ. Phòng sát mặt đất, sàn xi-măng, lại không có sưởi, nên lạnh buốt. Tôi không ngủ được, lên cầu thang định tìm nước nóng uống thì cửa cầu thang đã khóa trái lại bên trên. Định mở tủ lạnh xem có gì uống được không, thì vừa nhìn đến, tôi bỗng ngẩn người ra.Cái tủ lạnh, lúc chiều hai con bé tò mò mở ra xem, tôi nhìn thoáng thấy bên trong đầy một tủ đào. Có lẽ bà chị mua sỉ nguyên cả thùng nên để dưới này cho khỏi chật tủ trên. Bây giờ, tôi thấy một sợi dây xích to bằng ngón chân cái buộc quanh, lại có khóa xích lại ở cửa tủ cẩn thận.

Tôi không thể nhịn được cười, nghĩ thầm đến cuốn sách tên là “Một Nghìn Lẻ Một Cách Làm Nhục Kẻ Khác”. Nếu sách này tái bản, tôi xin ghi thêm cái mục xích khóa tủ lạnh khi có bà con đến thăm và ở lại) Ngưng trích

Cầu mong nhà văn Linh Bảo được an bình ở thế giới bên kia . Ngưng Hoàng Lan Chi

Nhà văn Linh Bảo, vừa kỷ niệm sinh nhật 98 tuổi vào Chủ Nhật 14/4/2024 đã qua đời tại tư gia vào Thứ Hai 22/4 ở thành phố Westminster, Nam California “Linh Bảo sống trong một ngôi nhà nhỏ nơi Thị Trấn Giữa Đường / Midway City, có vườn cây trái phía sau, một hồ cá Koi. Cùng sống trong ngôi nhà ấy là ba thế hệ cũng là ba thế giới: Linh Bảo, con gái và một cháu ngoại nay cũng tới cái tuổi tam thập nhi lập…” (Ngô Thế Vinh, 2015) từ đó cho đến nay. Theo ước nguyện của nhà văn, gia đình sẽ tổ chức buổi lễ tưởng niệm tại niệm tại chùa Vạn Hạnh ở San Diego vào cuối tháng 5/2024. Đây là ngôi chùa mà nhà văn và người em Võ Sum, người đồng sáng lập vào năm 1977 (thân phụ bà thời làm quan ở Kontum, Quảng Ngãi đã xây nhiều ngôi chùa).

Nhà văn Linh Bảo không sáng tác nhiều, đã ấn hành: Gió Bấc, truyện dài, Nxb Phượng Giang 1953. Chiếc Áo Nhung Lam, Sách Hồng, Nxb Đời Nay 1953. Tàu Ngựa Cũ, tập truyện ngắn, Nxb Đời Nay 1961, Tàu Ngựa Cũ, tựa đề của truyện ngắn, được lấy làm tựa đề của tuyển tập gồm 9 truyện, được giải thưởng Văn Chương Toàn Quốc của Việt Nam Cộng Hòa năm 1961 (Truyện dài Thềm Hoang của Nhật Tiến đoạt giải nhất, tập truyện Gìn Vàng Giữ Ngọc của Doãn Quốc Sỹ và Tàu Ngựa Cũ giải đồng hạng). Những Đêm Mưa, truyện dài, Nxb Đời Nay 1961. Con Chồn Tinh Quái, truyện cổ tích, có 47 chương, Nxb Ngày Mới 1967. Những Cánh Diều, tập truyện ngắn, Nxb Trí Đăng 1971. Mây Tần, tuyển tập, đoản văn, Nxb Việt Nam Hải Ngoại 1981 (trùng tên với tập thơ Mây Tần của Nguyễn Bính năm 1942)… nhưng tên tuổi của bà được biết đến từ thập niên 1950’ cho đến nay. Truyện của bà thường xuất hiện trên tạp chí Văn Hóa Ngày Nay năm 1958 của nhà văn Nhất Linh, Tân Phong của nhà văn Nguyễn Thị Vinh, chủ bút (thân nhau từ khi ở Hồng Kông), Bách Khoa của Lê Ngộ Châu và sau đó trên các tạp chí văn học khác.

Không hiểu vì sao thời gian ở Mỹ bà không sáng tác. Theo nhà văn Ngô Thế Vinh: “Sau 1975, Linh Bảo hầu như hoàn toàn không viết và chị cũng chẳng mấy quan tâm tới những tác phẩm đã tạo nên văn nghiệp của mình. Linh Bảo thì lúc nào cũng vẫn như Một Cánh Diều sống lưu lạc ngoài Việt Nam, nhưng lòng thì vẫn khắc khoải hướng về quê nhà. Linh Bảo đã ví thân phận những người Việt tha hương như những cánh diều, chỉ vì một cơn cuồng phong, cơn bão thời đại đã thổi bạt họ đi khắp mọi nơi trên thế giới” và duy nhất với tác phẩm Mây Tần.

Tập truyện Mây Tần của nhà văn Linh Bảo, dày 450 trang, có 27 truyện từ Tàu Ngựa Cũ đến Những Cái Tết Tha Hương. Trong đó có Tàu Ngựa Cũ, Những Cánh Diều…

Có lẽ tác giả lấy tựa đề Mây Tần vì trong Những Cái Tết Tha Hương (1979) ghi lại quãng đời lưu lạc Tết Hồng Kông năm 1946, Tết Nam Kinh, Tết Thượng Hải, Tết Quảng Châu, Tết Ba Lê, Tết Luân Đôn, Tết Mỹ, Lại Tết Mỹ.

Trong bài viết nầy, bà lấy bối cảnh những nơi đã sống, có thật nhưng với Mỹ, có lẽ với người bạn nào đó vì bà giảng dạy môn Việt ngữ Trường Sinh Ngữ Quân Đội ở Mỹ (1962-1976), chồng bà là giáo sư đại học Berkeley về sinh thái học (ecology).

Trong đoạn trong Tết Mỹ: “Tôi ăn Tết đầu tiên ở Mỹ với “bà cô các cháu”. Bà chị sang Mỹ từ lâu. Chồng chết, bà sống một mình trong tòa nhà hai tầng. Tầng trên đẹp đẽ sang trọng; tầng dưới – hay đúng hơn là nhà hầm – có một phòng tắm, chỗ để máy giặt máy sấy, một cái tủ lạnh thứ hai để đồ ăn tích trữ và một cái giường cũ.

Tôi phải tha hai con đến nhà bà trong bước đầu tiên để chờ thẻ di trú, và cũng để cho phải phép. Mình đến cũng chả ai hoan nghênh, nhưng nếu không đến trước thì sẽ bị giận suốt đời.

Sau bữa cơm Tết đúng nghi thức, bà lùa ba mẹ con xuống phòng dưới ngủ. Phòng sát mặt đất, sàn xi-măng, lại không có sưởi, nên lạnh buốt. Tôi không ngủ được, lên cầu thang định tìm nước nóng uống thì cửa cầu thang đã khóa trái lại bên trên. Định mở tủ lạnh xem có gì uống được không, thì vừa nhìn đến, tôi bỗng ngẩn người ra.

Cái tủ lạnh, lúc chiều hai con bé tò mò mở ra xem, tôi nhìn thoáng thấy bên trong đầy một tủ đào. Có lẽ bà chị mua sỉ nguyên cả thùng nên để dưới này cho khỏi chật tủ trên. Bây giờ, tôi thấy một sợi dây xích to bằng ngón chân cái buộc quanh, lại có khóa xích lại ở cửa tủ cẩn thận.

Tôi không thể nhịn được cười, nghĩ thầm đến cuốn sách tên là “Một Nghìn Lẻ Một Cách Làm Nhục Kẻ Khác”. Nếu sách này tái bản, tôi xin ghi thêm cái mục xích khóa tủ lạnh khi có bà con đến thăm và ở lại.

Hai con bé ôm nhau nằm co quắp ngủ say. Tôi không biết làm gì cho bớt lạnh, dậy sắp hành lý để ngày mai tha con về miền Cali; ngày mai, tôi sẽ từ giã bà chị cô đơn, từ giã mưa rét Seattle, từ giã cái tủ lạnh có sợi xích sắt to tổ bố. Tôi tự dặn mình sẽ tìm nơi có nắng ấm, ít nhất là dù có đói cũng không đến nỗi rét” Ngưng trích

Trích đoạn Lại Tết Mỹ:

17 cái Tết ở đất Mỹ; 17 năm làm thân con kiến để có kết quả ngày nay: tấm ngân phiếu dưỡng lão. Cái phần thưởng suốt mấy chục năm làm ngày làm đêm, lao tâm khổ lực để sửa soạn cho tuổi già.

Người con gái bướng bỉnh, gan lì bạt mạng ngày xưa, bây giờ ngồi chờ lãnh lương hưu! Tôi chỉ thành công ở một điểm: không phải là một gánh nặng cho gia đình hay xã hội…

Tết San Diego năm nay lại chỉ là một Tết tha hương cô đơn như tất cả những Tết tha hương cô đơn khác. Cô đơn một mình và càng cô đơn hơn trong những lúc ở chỗ đông người.

Có khác chăng, là tôi không cần phải có, dù chỉ tấm màn mỏng để làm biên giới. Tôi chỉ ngước mắt nhìn ra xa, trong một thoáng giây, là tôi có thể lẫn vào vùng ảo ảnh tâm linh khác, cách biệt hẳn với tất cả mọi người; hồn tôi đã tách riêng ra ở bên kia thế giới vô hình”. Ngưng trích

Nếu không đọc tiểu sử của bà thì tưởng đoạn văn trên là thân phận của bà khi đến Mỹ.

Hai câu thơ trong Truyện Kiều của Nguyễn Du:

“Đoái trông muôn dặm tử phần,

Hồn quê theo ngọn mây Tần xa xa”.

Mây Tần lấy từ điển tích từ hai câu thơ của Hàn Dũ (768-823) ở Trung Hoa bị đọa dày xa cố hương nên làm bài thơ than trách số phận với nỗi niềm: “Vân hoành Tần Lĩnh gia hà tại. Tuyết ủng Lam Quan mã bất tiền” (Mây ngang Tần Lĩnh biết nhà ta ở đâu?. Tuyết phủ Lam Quan ngựa khó qua) nói đến nỗi nhớ nhà.

Theo tiểu sử, nhà văn Linh Bảo, tên Võ Thị Diệu Viên, sinh ngày 14 tháng 4 năm 1926 (trong gia đình vọng tộc, quan lại triều đình Huế: Ông nội: Thượng Thư Bộ Lễ Võ Liêm (1973-1936) cha Võ Chuẩn (1873-1936), Tổng Đốc dưới triều vua Bảo Đại, mẹ là Tôn Nữ Thị Lịch, vợ thứ), trong 6 anh chị em có: Võ Sum (Hải Quân Đại Tá), Võ Thị Tuyết Phiến, Võ Thị Diệu Viên, Võ Thị Băng Thanh, dịch giả, cùng dịch Nỗi Buồn Chiến Tranh, Võ Thị Hoài Trinh (nữ sĩ Minh Đức Hoài Trinh 1930-2017), và Võ Tá Bá. Trong những người cháu của bà có nhạc sĩ Võ Tá Hân, tuy du học trước năm 1975, thành danh trên xứ người nhưng sáng tác của anh luôn mang tâm trạng của kẻ lưu vong.

Từ thời trẻ, Linh Bảo với mộng du học, rời xa gia đình sớm, vừa học xong năm thứ hai (1947-1949) đại học Tôn Trung Sơn thì Mao Trạch Đông chiếm toàn Hoa Lục, bà sống lưu lạc qua nhiều nơi ở Hoa Lục như Nam Kinh, Thượng Hải, Quảng Châu, Hồng Kông (Hương Cảng)… và sau đó sang Anh, Pháp và cuối cùng ở Mỹ. Bà người Việt Nam hiếm hoi lúc đó biết tiếng Quảng Đông, Quan Thoại,tiếng Pháp, tiếng Anh…

Năm 1951, bà lập gia đình với một người Hoa Ling Po Chan (Trần Linh Bảo) mang quốc tịch Anh, và trở thành công dân Anh. Bút hiệu Linh Bảo theo tên chồng từ đó. Ngoài ra, bà còn có hai tên khác: Lại Cẩm Hoa (thư nhà văn Nhất Linh gửi cho bà khi còn ở Hồng Kông với tên Lại Cẩm Hoa, tại đây bà quen thân với hai nhà văn Nguyễn Thị Vinh và Trương Bảo Sơn) và Vũ Trung Thư (Mo Chung Shu) tên ghi danh đi học ở Nam Kinh và Quảng Châu. Tác phẩm Gió Bấc của bà viết xong tại Hương Cảng 1952, năm 1953 nhà văn Nhất Linh cho ấn hành Gió Bấc.

Năm 1954, khi Lãnh Sự Quán Việt Nam Cộng Hoà mới được thành lập, với khả năng thông thạo nhiều ngoại ngữ, bà được tuyển làm nhân viên của toà Lãnh Sự Việt Nam tại Hồng Kông. Làm việc tới 1957, trở về nước và chỉ sau 2 năm, 1959 Linh Bảo lại chọn một cuộc sống xa quê nhà.

Từ Hồng Kông qua Pháp rồi qua Anh một thời gian, cuối cùng Linh Bảo chọn định cư ở Mỹ sau khi được tuyển dụng vào giảng dạy môn Việt ngữ (1962-1976) tại trường Sinh Ngữ Quân Đội Mỹ (Defense Language Institute) Monterey, Bắc California cho đến khi ngôi trường bị giải thể sau chiến tranh Việt Nam.

Theo nhà văn Ngô Thế Vinh: “Học giả Nghiêm Xuân Việt, Văn Bút Việt Nam với thiện chí trao đổi văn hoá với ngoại quốc đã chọn hai truyện Người Quân Tử và Áo Mới trong Tàu Ngựa Cũ dịch ra Anh ngữ với tên truyện The Noble Man và Our Brand New Robes và gửi đi dự cuộc thi truyện ngắn do International PEN tổ chức 1961. Thành phần ban giám khảo gồm những tên tuổi như: Storm Jameson (Anh), André Maurois (Pháp), và Whit Burnett (Mỹ). Kết quả là cả hai truyện ngắn này được tuyển chọn vào chung kết trong số 26 truyện ngắn quốc tế hay nhất năm đó. Cũng thời gian đó Linh Bảo đang sống ở Luân Đôn. Hình như sau đó, hai truyện ngắn này được PEN Vietnam Centre dịch sang tiếng Pháp: L’ homme noble, và Robles Nouvelles để in trong tuyển tập truyện ngắn của Văn Bút Việt Nam”.

Nhà văn Viên Linh khi gặp bà lần đầu tiên năm 2006 đã viết: “Bà có nước da trắng hơn một người Á Châu bình thường, dung mạo như một phụ nữ Tây phương, hai mắt nhìn thẳng, nhân trung mở, sống mũi cao, cặp lông mày hơi xếch, và một vừng trán rộng, một cái cằm có góc cân đối, khiến toàn thể khuôn mặt – gọi là gương mặt thì đúng hơn – tỏa ra một ánh sáng khỏe mạnh, thẳng thắn”.

*

Trong quyển Văn Học Miền Nam Tổng Quan, nhà văn Võ Phiến đề cập đến khuynh hướng tình cảm có: Linh Bảo, Nguyễn Thị Vinh, Nhã Ca, Thanh Nam, Văn Quang. Võ Phiến viết về Linh Bảo trên tạp chí Bách Khoa, năm 1962: “Trong số những người đàn bà viết văn ở ta hiện nay, có lẽ Linh Bảo có tài nhất: có tài quan sát, lại có tài diễn tả một cách thông minh những điều mình quan sát. Quan sát và phân tích tâm lý, Linh Bảo đã trình bầy được mỗi nhân vật với một hình dạng, một cá tính rõ ràng, một lối sinh sống và ăn nói riêng biệt… Linh Bảo thường hay tìm ra cơ hội để làm người đọc mỉm cười, dù là trong những trường hợp buồn thảm: nhà ngập lụt, vợ chồng giận nhau. Giữ được nét mặt tươi tắn cả trong khi buồn, đó là một lối làm đẹp rất khéo của đàn bà, nhất là đàn bà ‘lịch sự’: vì vậy mà cái cười do Linh Bảo gợi lên lắm lúc có chua chát, người đọc vẫn dễ có cảm tình với giọng văn của tác giả”.

Trong ký sự văn học Giai Thoại Hồng của nhà văn Hồ Trường An năm 1989, về các nhà văn nữ. Chương V: Linh Bảo & Minh Đức Hoài Trinh (trang 73- 94).

“Sau năm 1959, trên văn đàn, Linh Bảo như một bóng ma, hiện đó rồi mất đó, gieo lại cho người theo dõi văn chương cái ám ảnh bàng bạc… Giữa lúc mọi người spa81 quên bà thì bà hiện đến, múa vài đường bút ngoạn mục rồi biến đi. Khi rời nước, bà cộng tác với tập san Tân Phong qua hình thức các lá thư gởi cho chị Nguyễn Thị Vinh rồi biến bặt tăm khi tờ báo đóng cửa… Sự ẩn hiện của bà có vẻ quyến rũ. Một nhà văn ăn khách vụt biến đi dễ gây khao khát thèm thuồng cho người đọc… sáng tác dù hay, nhưng sự xuất hiện thường xuyên cũng dễ gây nhàm chán cho độc giả”.

*

Nhân đây, trích dẫn vài nhận xét về nhà văn Linh Bảo đã được đề cập qua các bài viết:

Sau nhà văn Nhất Linh cảm nhận về sáng tác đầu tay của Linh Bảo. Võ Phiến viết về Linh Bảo trên tạp chí Bách Khoa, năm 1962: “Trong số những người đàn bà viết văn ở ta hiện nay, có lẽ Linh Bảo có tài nhất: có tài quan sát, lại có tài diễn tả một cách thông minh những điều mình quan sát. Quan sát và phân tích tâm lý, Linh Bảo đã trình bầy được mỗi nhân vật với một hình dạng, một cá tính rõ ràng, một lối sinh sống và ăn nói riêng biệt… Linh Bảo thường hay tìm ra cơ hội để làm người đọc mỉm cười, dù là trong những trường hợp buồn thảm: nhà ngập lụt, vợ chồng giận nhau. Giữ được nét mặt tươi tắn cả trong khi buồn, đó là một lối làm đẹp rất khéo của đàn bà, nhất là đàn bà ‘lịch sự’: vì vậy mà cái cười do Linh Bảo gợi lên lắm lúc có chua chát, người đọc vẫn dễ có cảm tình với giọng văn của tác giả”.

Trong cuốn sách Các Nhà Văn Nữ Tại Miền Nam Việt Nam (1954-1975). Nguyên tác Anh ngữ: “Women Writers of South Vietnam (1954-1975)” của Công Huyền Tôn Nữ Nha Trang do Đoàn Thanh Liêm dịch, người viết đã ghi về Linh Bảo với những dòng trang trọng: “Nhân vật nữ trong các tác phẩm của Linh Bảo thường cũng biểu lộ một khía cạnh trong nhân cách của tác giả. Tuy nhiên, đó chỉ là một mặt của vấn đề, cái phần liên hệ tới chủ đề. Ngay trong nghệ thuật viết, tính chủ quan của bà cũng được biểu lộ một cách độc đáo. Thường xuyên trong các tác phẩm của mình, Linh Bảo xác định cá tính của mình qua sự phê phán với giọng văn khôi hài chua cay về những tình huống liên hệ đến phụ nữ”.

Có lẽ trong gần nửa thế kỷ qua, tập truyện Mây Tần của nhà văn Linh Bảo ấn hành năm 1981 rồi bà không còn xuất hiện trên văn đàn Việt Nam ở hải ngoại nên bị lãng quên… Với các tác phẩm trước năm 1975 đã được đề cập ở trên qua các bài viết sau nầy còn được nhắc đến.

Với tôi, tác phẩm Con Chồn Tinh Quái (Ngày Mới 1967), chưa thấy nhận định nào nhưng tôi rất thích. Từ những mẩu chuyện Tại Sao Loài Chồn Ra Đời, Bạn Bè Họ Hàng Của Chồn, Chồn, Chó & Mèo, Chồn & Quạ, Chồn, Chim & Thỏ, Chồn Chữa Bệnh, Gà Trống Gặp Chồn, Chồn Về Kinh, Chồn Tự Biện Hộ, Vận Mệnh Chồn, Chồn Nhạc Sĩ, Chồn Báo Thù Gấu, Chồn Cứu Sư Tử, Chồn Học Cách Chia Phần, Chồn Từ Quan Về Quê… cuối cùng Cái Chết Của Chồn. Với cái nhìn tinh tế, sâu sắc, ví von với giọng văn dí dỏm, trêu chọc lôi cuốn người đọc đi vào thế giới động vật rất sinh động.

Trong tuyển tập Những Khuôn Mặt Văn Hóa Việt Nam Hải Ngoại của Câu Lạc Bộ Văn Hóa VN Paris (Chủ nhiệm nhà văn Đỗ Bình, chủ bút TS Nguyễn Thị Phượng Thanh và 14 thành viên) ấn hành năm 2022, dày 806 trang (chữ nhỏ font helve 0.. Đây là công trình biên soạn rất công phu quy tụ nhiều bậc thức giả, văn nghệ sỹ… đóng góp. Sau phần Những Khuôn Mặt Văn Hóa Vang Bóng Một Thời Tại Pháp, Bỉ, Cộng Hòa Liên Bang Đức, Hòa Lan, Canada (trang 207-219), Úc (trang 221-224)… Nhiều nhất tại Mỹ (theo alphabet trang 96-181) không thấy có lên nhà văn Linh Bảo.

Khi nhà văn Nguyễn Thị Vinh qua đời ngày 8/1/2020, tôi viết bài Tưởng Nhớ Nhà Văn Nguyễn Thị Vinh (1924-2020) ngày 10/1/2020 được đăng trong tuyển tập nầy (trang 698-701) có tấm hình ở tòa soạn Văn Hóa Ngày Nay năm 1958 với Linh Bảo, Nguyễn Thị Vinh, Nhất Linh, Bình Nguyên Lộc (có lẽ là hình ảnh duy nhất với nhà văn Linh Bảo?). cùng với bài viết về nhà thơ Hoàng Anh Tuấn và bài viết Khái Quát Báo Chí Việt Ngữ Tại Little Saigon (trong mục sinh hoạt).

Bài viết của nhà văn Ngô Thế Vinh năm 2015 về nhà văn Linh Bảo, sau đó ấn hành trong tác phẩm Chân Dung Văn Học Nghệ Thuật & Văn Hóa năm 2017, Viet Ecology Press xuất bản được xem là tài liệu văn học hữu ích. Với 18 chân dung gồm 13 nhà văn, nhà thơ, nhà báo, 3 họa sĩ và 2 nhà văn hóa, hai trí thức khoa bảng đáng kính bậc nhất của Việt Nam. Ngô Thế Vinh lần đầu tiên gặp Linh Bảo khi sang tu nghiệp ngành Y tại San Francisco nên từ đó quen thân và có nhiều tài liệu để viết về bà rất chính xác. Tuyển tập 2 ấn hành năm 2022 (Viet Ecology Press).

Tháng 2/2024, tác phẩm Ngô Thế Vinh, bằng hữu & văn chương do Ngôn Ngữ ấn hành, dày 700 với nhiều tác giả từ thời ở miền Nam VN cho đến nay. Tuy xuất thân ngành Y nhưng anh đam mê nghiệp cầm bút với những sáng tác và công trình biên khảo văn học nghệ thuật & môi trường, lịch sử rất giá trị. (Nhân đây, cảm ơn anh đã có nhã ý gởi tặng tôi những tác phẩm giá trị làm tài liệu).

Kể từ tác phẩm đầu tay đến nay đã bảy thập niên, nhà văn phái nữ nổi tiếng cũng chẳng gây thù oán gì trên văn đàn nhưng ít được nhắc đến, bị bỏ quên trong khi những nhà văn nữ cùng thời và sau đó, được đề cập. Nay nhận tin bà đã ra người thiên cổ tưởng nhớ đến bà Vĩnh Biệt “Mây Tần” với nỗi ngậm ngùi. Cầu nguyện nhà văn Linh Bảo về cõi vĩnh hằng “Hồn quê theo ngọn mây Tần xa xa” xa lánh chốn lao xao nơi cõi trần.

Little Saigon, April 25, 2024

Vương Trùng Dương

Posted in Linh Tinh | Leave a comment

HLC-“Hẹn Hò về nước mới”- April 24,2024

Trích LanChiYesterday-Những vụn vặt đời sống quanh tôi

Hẹn hò về “nước Mới”!

Mấy hôm nay, Tháng Tư, tôi gửi vài bài về “Mùa Quốc Hận”. Có bài cũ, có bài mới.

Bài cũ của tôi vào 2011 với tựa “Nhìn Lại Thoáng Ngày Xưa”. Trong đó kể lại những ngày cuối Tháng Tư 1975. Khi ấy, tôi đang làm ở Ban Vật Lý Địa Cầu (dạy thực tập cho sinh viên) sau khi rời Tổng Nha Kế Hoạch. Ô BXC, một bạn già “thân” (vì “thân” nên hay trêu ghẹo tôi, bị tôi mắng tơi bời hoa lá mà vẫn “cù nhây” cười cười) mail trả lời trên bài đó như sau:

Kính bà Lan Chi,

Sao hôm nay tự nhiên tôi nhớ bà quá ! Tôi xin trân trọng mời bà trở về "nước mới" của bà là xứ Hoa Kỳ, và bà sẽ đến trú ngụ tại tệ xá it ngày. Bà sẽ được gia đinh tôi cung kính như thượng khách và bà sẽ được các bạn cũ và độc giả của bà tự do tới thăm viếng để tỏ lòng ngưỡng mộ bà.

Kính mong được bà cứu xét và nhận lời mời thành kính của tôi.

BXC

Mỗi lần đọc mail kiểu này của BX Cảnh hay “ma sơ NT”, là tôi lại bật cười. Trên đời này, có bạn bè nào mà rủ bạn đến nhà chơi bằng cái kiểu email có “trân trọng mời”, rồi lại còn “ kính mong được cứu xét” rồi lại “về nước mới”. nữa hay không hả giời! Chỉ là có hai lão “khỉ gió” (NT+BXC) là hay trêu ghẹo “bà chằng” như vậy.

Thời gian trôi nhanh thật. 2004, tôi đến VA rồi qua chương trình âm nhạc của đài Việt Nam Hải Ngọai mà quen ma sơ Nguyễn Tuấn. Năm 2005 thì phải, Tuấn từ Pensylvanis đến VA dự cái gì đó, ghé tôi chơi rồi chở tôi tới nhà ô Cảnh. Sau đó, khi tôi làm ở Ủy Ban Cứu Người Vượt Biển thì bà xã ô Cảnh hay gửi bài đăng báo Mạch Sống. Âyda, ngày đó tôi cứ tưởng chị Bích Anh viết kia đấy nhưng sau này thì tôi biết tỏng ra, chả có Hoàng Thị Bích Anh nào hết mà chỉ có Bùi Xuân Cảnh thì có! Ngày tôi đi học college ở VA thì ô Cảnh là người mua dùm tôi tự điển thì phải. Ông này là một big fan của tôi. Cảnh rất mê những bài tôi phỏng vấn Nguyễn Văn Đông vào 2005. Ô Cảnh cũng “mê” những bài “bà chằng” bụp bọn việt gian thật sắc bén qua vụ Giám đốc Lưu Lệ Ngọc của đài Việt Nam Hải Ngọai giao du với Đệ Tam Tham Tá của Tòa Đại Sứ VC. Ô Cảnh hay cho “feedback” dí dỏm, vui vui. Vào 2013, trước kiến thức, tài viết văn dí dỏm của BXCảnh, tôi có phỏng vấn ổng. Phải nói bài phỏng vấn rất hay vì nhiều tài liệu (như một nhân chứng thời cuộc).

Link: Saigon Muôn Năm Cũ-Bs Bùi Xuân Cảnh kể về ĐH NLS thời VNCH, thời Uỷ Ban Khoa Học sau 75..

Ông Cảnh có một bài viết về chị Bích Anh rất hay sau khi chị ra đi. Tôi cũng có giới thiệu bài này ngày đó. Ô Cảnh và Ma sơ Nguyễn Tuấn là hai người duy nhất “dám” trêu ghẹo “bà chằng” nhiều khi “quá lố” nhưng “bà chằng” chỉ chửi “ONO” là huề vốn! Viết “DÁM” THÌ lại nhớ chữ DÁM của bác Vũ Linh! Bác Vũ Linh dùng chữ “DÁM bỏ ra 18 tỉ cho ngành dược phẩm để tìm vaccin covi” làm “vẹt con, vẹt nhỡ” (VẸT là chữ ô Linh dùng) nhẩy dựng lên vì tưởng phen này “bắt bí” được Vũ Linh”.

Tôi thấy lòng chùng xuống khi nhớ về “nước Mới Hoa Kỳ” của tôi. Ai mà ngờ, “Bà Tổng” HLC lại là người có đến ba quốc tịch ( VNCH, Mỹ, Úc). Muốn ở đâu thì ở nhưng tự nguyện không về VNCS. Bị bắt buộc rời Mỹ vì hai đứa con không chịu qua Mỹ sống. Mà thôi, giờ này yên bình với vườn hoa nhỏ ở Úc cũng vui. Xem này, mùa Thu, mưa dầm dề, hoa hồng tơi tả không đẹp như Xuân nhưng vườn thì coi rất sạch và đẹp vì trải cỏ giả. Vườn thế này thì ông Cảnh ơi, “bà chằng” bỏ đi về “nước mới” thì ai chăm vườn cho “bà chằng” đây! Tốt hơn hết, ông với ma sơ qua Úc, tối ra vườn ngắm trăng, ma sơ đàn và gọi qua Melbourne kêu Thu Tuyết hát!!!

Mận ngọt lắm. Tắc ngọt xinh chưa.

Posted in Linh Tinh | Leave a comment

Hà Hưng Việt- Tọa Sơn Quan Hổ Đấu ( cuộc chiến Nguyễn Phú Trọng- Tô Lâm- (Tựa do HLC đặt thêm) April 22, 2024

TOẠ SƠN QUAN HỔ ĐẤU

Tiến sĩ Hà Hưng Việt
Mặt Trận Quốc Gia Việtt Nam – OTEAM

Trong thời gian gần đây, đảng CSVN đang cố gắng phát triển về kinh tế ngõ hầu che dấu sự thất bại và sự suy yếu của Đảng qua việc thanh trừng lẫn nhau. Bề ngoài thì chúng tỏ Đảng đang lớn mạnh, chính phủ trong sạch, kiện toàn để dân chúng yên tâm tin tưởng vào đảng nhiều hơn qua việc “Đốt Lò” cán bộ xấu hay tham nhũng.

Nhưng thực ra, sức khoẻ của Nguyễn Phú Trọng như ngọn đèn dầu trước gió và không biết sẽ đi lúc nào! Dù vẫn giữ chức vụ Tổng Bí Thư đảng, nhưng hàng ngày Trọng vẫn được thần y “ Lang Trung Y Viện” của Trung Cộng là ông Xin Yui Lin chữa trị “Sinh Tử Phù” do Tàu cấy vào. Trọng vẫn muốn đàn em của mình tiếp tục lãnh đạo Đảng đề bào vệ an toàn cho giòng họ và phe nhóm. Trong khi đó thì Tô Lâm cố gắng tạo uy thế, triệt hạ phe đối lập hòng chiếm chức Tổng bí thư Đảng để thu tóm quyền hành và lợi nhuận cho phe nhóm dưới quyền để Thay Đảng CSVN bằng đảng công an “ Bò Lát Vàng” khi Nguyễn Phú Trọng đi theo chân Trần Đại Quang.

Để đạt dược “tuyệt đỉnh vinh quang ", Tô Lâm phải ra sức tạo thanh thế, và triệt hạ tay chân của Vương Đình Huệ, một đối thủ mà Tô Lâm phải vượt qua để lấy được chức Tổng Bí Thư đảng thay vì chỉ được bầu vào chức vụ Chủ Tịch nước thay thế Võ Văn Thưởng. Sau khi Võ Văn Thưởng bị Quốc hội bãi nhiệm, bà Võ Thị Ánh Xuân giữ quyền Chủ tịch nước từ 21/3/2024 cho đến khi Quốc hội bầu ra Chủ tịch nước mới. Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông báo về việc thực hiện quyền Chủ tịch nước ngay sau khi bế mạc kỳ họp bất thường lần thứ 6 Quốc hội khóa 15; nhưng Tô Lâm có thể bị mất chức trong thời sắp tới qua sự “ đốt lò” của nhóm họ Vương.

Tô Lâm sinh năm 1957, Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, Giáo sư Khoa học An ninh, học vị Tiến sĩ Luật học, Cao cấp lý luận chính trị, cấp hàm Đại tướng Công an nhân dân Việt Nam, Ủy viên Bộ Chính Trị. Tô Lâm được đánh giá là một viên Tướng Hữu Dõng Vô Mưu và là phủ phạm chính trong việc tiêu diệt tôn giáo qua việc phá huỷ nhà thờ tại Khánh Hội và san bằng chùa Liên Trì. Qua gương Trần Đại Quang và Võ Văn Thưởng, Tô Lâm rất sợ chức chủ tịch nước vì ông ta có rất nhiều kẻ thù từ khi nhận chức Bộ Trưởng Công An, mặc dù Lâm có đàn em là Thượng Tướng Lương Tam Quang với hy vọng sẽ thay thế Bộ Trưởng Bộ Công An nếu Tô Lâm nhận chức Chủ Tịch nước.hay Tổng bí Thư Dcsvn .

Vương Đình Huệ, đàn em của Nguyễn Phú Trọng, một người có mưu lược, cũng là Chủ Tịch Quốc Hội như Trọng trước khi Trọng được bầu làm Tổng Bí thư Đảng, một chức vụ quyền uy tuyệt đỉnh. Sau Trọng và Là người trung thành với chủ trương "thà mất nước chứ không thể mất Đảng", Huệ là người Nguyễn Phú Trọng tin tưởng sẽ thay thế ông ta. Trong khi đó Vương Đình Huệ có một liên minh cật ruột là Thů tướng Phạm Minh Chính,Thůtướng một nhân vật trong thâm cung bí sử, được một người dàn bà Trung Hoa tên Chuan Xíu , cán bộ cao cấp của Tập Cẩm Bình đỡ đầu. Bà Chuan năm nay 65 tuổi, là người vạch kế hoạch giúp Phan Minh Chính lập con đường Tơ Lụa theo kế sách họ Tập tại Quảng Ninh.

Nhân Vật thứ ba mà hai bên đang cầu thân là bộ trưởng Quốc Phòng Phan Văn Giang, một người mà hai họ Tô và Vương đang ao ước sẽ dứng về phe mình. Phan Văn Giang biết cái thế trung lập của Quân Đội nên giao hảo với cả hai, và sẽ ngả về phía mạnh khi một bên thắng thế.

Ngưởi Việt Nam quốc gia chân chính cũng đã có hướng đi riêng: Toạ Sơn quan sát hai mãnh hổ tranh tài. Nếu Tô Lâm thua sẽ có biến loạn vì Tô Lâm se ra tay triệt tiêu tối đa các kẽ thù do sợ bị trả thù và không bao giờ để bị triệt hạ như Trần Đại Quang. Còn nếu Tô Lâm thắng, chắc chắn sẽ là đại hoạ cho dân Việt dưới sự thống trị của guồng máy công an cộng sản tham ô thối nát nhũng loạn.

Con đường chính nghĩa duy nhất cho người dân Việt là: Giải thể đảng CSVN

Vi chế độ này TRÂU NGỰA CŨNG KHÔNG AN…Một khi bon SÀI LANG Dựng XONG NỀN THỐNG TRỊ!

Hà Hưng Việt

Posted in Linh Tinh | Leave a comment

Tháng 4-Phan Nhật Nam- Lê Minh Đảo, Người Lính Lẫm L iệt giữa tháng Tư hung hãn- April 22, 2024

PHAN NHẬT NAM

LÊ MINH ĐẢO , NGƯỜI LÍNH LẪM LIỆT GIỮA THÁNG 4 HUNG HÃN

  • Năm 2022, Hoàng Lan Chi giới thiệu : Phan Nhật Nam, cây bút quân đội nổi tiếng với "Mùa Hè Đỏ Lửa" đoạt giải văn học Tổng Thống, từng được Hội Nhà Văn trong nước cung thỉnh về dự đại hội văn bút gì đó cùng Tô Thùy Yên và cả Nam lẫn Yên đều từ chối. TTY mới từ giã cuộc chơi. Nam vẫn ở Mỹ và dự tính qua Úc chuyến nữa nhưng bị dịch nên thôi. ( Có lẽ tôi phải "dụ dỗ" Nam qua Úc trong năm 2022 này để "bắt" Nam trồng cây trúc kiểng cho tôi vì tôi thích trúc. Nó tượng trưng cho khí tiết người quân tử.). Bài này Nam viết về Cố TT Lê Minh Đảo. Như thường lệ Nam viết, rất chi tiết vì Nam có biệt tài NHỚ DAI nhiều chi tiết về trận đánh, tên người. Vì vậy, người lính trong cuộc đọc sẽ rất thích. Tôi là nữ, ngoài cuộc nên đọc nhanh. Các bạn ở lại trong nước và cả người già từ Hà Nội vào Sài Gòn hãy xem, khi viết, lấy tài liêu ở đâu thì phải có CHÚ THÍCH ở cuối bài . Đó là PHÉP LỊCH SỰ TỐI THIỂU của người cầm bút. Có MỘT VÀI NGƯỜI, đã lớn tuổi mà chuyên môn viết bài dựa vào nguồn này, nguồn kia mà cứ làm như do mình viết: điều đó không nên.

Trong các vị tướng ở lại, bị tù trên 10 năm, tôi lại mến tướng Trần Quang Khôi, Thiết Giáp. Ông nghiêm, hiền và không tai tiếng gì. Năm 2004, tôi từng lấy vài bài của Tướng Khôi đọc trên Đài Phát Thanh Việt Nam Hải Ngọai ở Hoa Thịnh Đốn. Tướng Khôi rất quý mến Hoàng Lan Chi. Chính ông viết mail, bày tỏ sự đồng tình, khen ngợi khi tôi viết bài tố cáo vụ giám đốc Tài Chánh Lưu Lệ Ngọc của đài Việt Nam Hải Ngọai giao du với Đệ Tam Tham Tán của Tòa Đại Sứ vào khaong3 2008. ( Ông viết: Anh và gia đình Mũ Đen Hoa Thịnh Đốn đứng sau em, ủng hộ việc làm này của em).

Tuy vậy, Tướng Lê Minh Đảo có cô con gái làm phóng viên cho các media Việt ở DC. Cô xứng đáng là "hậu duệ VNCH".

Mời đọc bài viết của "người lính" Phan Nhật Nam nhân Tháng Quốc Hận.

Kính tiễn biệt Thiếu Tướng Lê Minh Đảo

Để nhớ Ngày “Anh Tư Về Trời”

Kết thúc cuộc chiến dang dở không thành

Nơi Quê Nhà Ở Việt Nam.

(30/4/1975-19/3/2020).

I- Giữa vũng lầy chính trị

Trong những ngày đầu tháng 4, 1975 Cựu Bộ trưởng Thông Tin Chiêu Hồi Hoàng Đức Nhã, nay giữ chức vụ cố vấn riêng của Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Văn Thiệu, đã có mặt tại Singapore theo lời mời của Thủ Tướng Lý Quang Diệu. Cá nhân cố vấn Nhã rất ái mộ nhà lãnh đạo họ Lý, bởi vị nầy đã thành công trong quá trình cai trị (dẫu bị phê phán là độc tài, độc đảng theo thói tục của chính giới Tây Phương) bằng việc thực hiện cho người dân Singapore những điều mà chế độ cộng sản hứa hẹn “sẽ có nơi địa đàng trần thế”: Tự do, dân chủ, việc làm, phồn thịnh kinh tế, ổn định xã hội… Mức sống người dân Singapore được xếp hạng cao nhất Châu Á. Môi trường, thành phố, phi cảng Singapore được đánh giá là những địa điểm công cộng sạch nhất thế giới. Tháp Đôi ở thủ đô nầy có chiều cao nhất hơn hẳn toàn nhà Empire State Building hay Twin Towers của New York.

Thủ Tướng Diệu không mời Cố Vấn Nhã đến do liên lạc bình thường giữa những chính khách. Ông mời ông Nhã đến để trao gởi một “nguồn tin” quan trọng. Thủ Tướng Lý vào thẳng vấn đề: “Đừng để mất thì giờ vô ích, tôi mời ông tới đây bởi kết thúc (ở Việt Nam) sắp xảy đến. Rockefeller vừa hỏi ý kiến tôi cũng như những vị lãnh đạo Á Châu khác, liệu chúng ta có cách gì để đưa ông Thiệu ra đi hay không.”(2)

Hóa ra chuyến viếng thăm không chính thức các nước Đông Nam Á của Phó Tổng Thống Mỹ Rockefeller nhân dịp viếng lễ tang người lãnh đạo cuối cùng của thế hệ Thế Chiến thứ Hai, Thống Chế Tưởng Giới Thạch vừa qua (5 tháng 4) là để thông báo điều: “Đã đến lúc chính phủ Mỹ cần thay người cầm quyền ở Nam Việt Nam”. Thủ Tướng Lý không nói thêm điều gì khác – việc “ai” sẽ thay thế ông Thiệu là vấn đề của Sài Gòn với những người như Đại Tướng Minh, Khiêm, hoặc Cựu Phó Tổng Thống Kỳ… Ông chỉ thúc dục cố vấn Nhã: “Hãy khẩn báo cho ông anh của ông như thế mà thôi. Riêng ông nên ở lại đây. Đừng về lại Sài Gòn, tôi sẽ lo liệu cho gia đình ông ra khỏi nước. Người Mỹ cũng đã xếp đặt sẵn một nơi cho ông Thiệu lưu trú…”(3)

Không biết cuộc mạn đàm đã được thâu băng, cũng như nơi Dinh Độc Lập máy ghi âm mật (do văn phòng CIA Sài Gòn gài) luôn hoạt động, Nhã thông báo liền cho Tổng Thống Thiệu nguồn tin chẳng mấy phấn khởi nầy; một phần ông cố vấn cũng đã hiểu ra thực tế: “Giới quân nhân, những tư lệnh chiến trường đã không còn tin tưởng nơi ông tổng thống vốn xuất thân từ quân đội này nữa.”

Cuộc rút bỏ Tây Nguyên sau ngày 10 tháng Ba (ngày quân đội Bắc Việt tổng tấn công Ban Mê Thuột), tiếp theo lần di tản Huế, Đà Nẵng, Quy Nhơn, Nha Trang (cuối tháng 3) với thảm cảnh kinh hoàng của dân và lính vượt khỏi tất cả những dự kiến; làm tan vỡ sức chiến đấu, phá hủy quân trang cụ, vũ khí của hai Quân Khu I và II đã bày ra điều cùng cực phi lý và tàn nhẫn: Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu, Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa không nắm vững chính trị lẫn quân sự của tình thế. Chỉ riêng về mặt quân sự không thôi, ông cũng đã là một người chỉ huy mất khả năng kiểm soát chiến lược lẫn chiến thuật mà một nhà lãnh đạo cần phải có.

Nghĩ cho cùng cũng chẳng phải riêng của Tổng Thống Thiệu với tình thế Việt Nam. Lời thông báo của Phó Tổng Thống Rockefeller cũng không là ý kiến riêng của người lãnh đạo ở Tòa Bạch Ốc nhưng là phản ảnh thực tế về quyết định của chính giới Mỹ đối với tình thế chung cho toàn vùng Đông Nam Á. Ngày 12 tháng 4, Nam Vang thất thủ, người lãnh đạo Sirik Matak cùng tất cả bộ trưởng của chính phủ Long Boret (chỉ trừ một người thuận di tản theo đề nghị của Toà Đại Sứ Mỹ) là những nạn nhân đầu tiên của cách hành hình man rợ hơn cả thời Trung cổ do đám đao phủ Kmer Đỏ hành quyết. Họ không chết do bất ngờ, vì không lường được tính ác ghê rợn của lực lượng cộng sản Khmer mà hơn ai hết, vị cố vấn chính trị của tổng thống Campuchia đã có lá thư tuyệt mệnh gởi đến Đại Sứ Dean John của Hoa Kỳ với lời lẽ khẳng quyết bi tráng như sau: “Kính gởi Ngài Đại Sứ và các Bạn… Tôi chân thành cảm ơn lá thư ngài chuyển tới với đề nghị giúp tôi phương tiện đi đến vùng tự do… Nhưng hỡi ơi, tôi không thể bỏ đi một cách hèn hạ như thế được. Xin ngài cứ ra đi, và tôi cầu chúc ngài cùng đất nước Hoa Kỳ có được nhiều điều hạnh phúc dưới cõi trời nầy. Nếu tôi có phải chết thì cũng chết trên đất nước mà tôi vô cùng yêu quý dẫu cho đấy là điều bất hạnh, nhưng chúng ta ai chẳng sinh ra và một lần mất đi. Tôi chỉ phạm một lỗi lầm là đã tin vào ngài và tin vào những người Bạn Mỹ.“(4)

Lời báo động của người thân cận Hoàng Đức Nhã cùng tình thế bi thảm của Campuchia, lẫn thực tế tuyệt vọng của miền Nam khi phòng tuyến Phan Rang (mà cũng không bao giờ đã là một tuyến phòng thủ vững chắc được, bởi đấy là một vùng đất có thể tiếp cận đến bởi bất cứ hướng tiến quân nào, kể cả hình thái bao vây, chia cắt) bị tan vỡ, buộc Tổng Thống Thiệu phải hiểu ra rằng: Những lá thư bảo đảm của Tổng Thống Nixon với những lời trịnh trọng “Tự do và độc lập của Việt Nam Cộng Hòa luôn là mục tiêu tối thượng của chính sách đối ngoại của nước Mỹ. Tôi hằng dốc sức thực hiện mục ấy suốt cuộc đời chính trị của bản thân” (5) đã không còn mảy may giá trị, vì người viết như giòng chữ (cho là thực tâm kia) đã đi ra khỏi Tòa Bạch Ốc với tình cảnh của kẻ “phạm tội” sau vụ Watergate (9/8/1974).

Người thay thế ông, tổng thống không do dân cử, Gerald Ford, lại bị trói buộc toàn diện bởi Nghị Quyết Sử Dụng Vũ Lực Chiến Tranh đã được Quốc hội phê chuẩn từ tháng 11, 1973, cho dù Tổng Thống Nixon đã dùng quyền phủ quyết bác bỏ. Nghị quyết này thật sự là phần hiện thực hiến định của đạo luật cắt bỏ quỹ “Hoạt Động Tác Chiến” do Tu Chính Án Cooper-Church đệ trình Thượng Viện Mỹ nhằm hạn chế quyền lực sử dụng quân đội Mỹ ở Đông Dương từ 1970 (6) – Tất cả điều khoản, đạo luật này đã được lưỡng viện Quốc Hội Mỹ phê chuẩn thi hành sau khi ký Hiệp Định Paris (27 tháng 1, 1973) và Thông Cáo Chung của Kissinger cùng Lê Đức Thọ, ngày 13 tháng 7 cùng năm để “thúc đẩy các bên ký kết thi hành hiệp định “Tái Lập Hòa Bình tại Việt Nam (sic).”

Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu nhất quyết không để thân phận mình kết thúc tan thương oan khốc như tình cảnh của Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm, cũng không muốn “hiển thánh vị quốc vong thân” trước nòng súng của binh đội cộng sản. Ông dư biết “những kẻ thù chính trị sẽ không để cho ông yên thân; ông lại càng ngao ngán tình đời vì Cựu Phó Tổng Thống Kỳ đã xuất hiện lại với một khẩu P38 cặp kè bên hông hiện thực lời răn đe “phải làm một cái gì… và Sài gòn sẽ là một Stalingrad” như trong lần nói chuyện ở Trường Chỉ Huy Tham Mưu tại căn cứ Long Bình. Nhưng cốt yếu đối với người “bạn Mỹ”, người bạn mà vị chính khách Campuchia Sirik Matak bên nước láng giềng kia đã phẫn uất kêu lên lời tán thán – Ông Nguyễn Văn Thiệu phải ra tay trước – Vất bỏ gánh nặng mà ông cho là “vô lý” với luận cứ: “Người Mỹ đòi hỏi chúng ta làm một việc bất khả thể. Tôi đã từng nói với họ: Các ông đòi chúng tôi làm một việc mà các ông không làm nổi với nửa triệu quân hùng mạnh, với những viên chỉ huy tài giỏi, và tiêu hơn 300 tỷ (Mỹ kim) trong hơn sáu năm… Rồi bây giờ tương tự như các ông chỉ cho tôi ba đồng, bắt tôi mua vé máy bay hạng nhất, thuê phòng khách sạn 30 đồng một ngày, ăn bốn, năm miếng bíp-tếch, uống bảy, tám ly rượu vang mỗi ngày. Đấy là một chuyện hết sứ vô lý.” (7)

Sau khi so sánh cuộc chiến đấu của một dân tộc với cách thức đi ăn tiệc với giá biểu “kỳ cục” kể trên, ông cao giọng tố cáo người bạn quý không e dè: “… các ông để mặc chiến sĩ chúng tôi chết dưới mưa đạn pháo. Đấy là một hành động bất nhân của một đồng minh nhân.” ( Ông chát chúa lập lại: “Từ chối giúp một đồng minh và bỏ mặc họ là một hành vi bất nhân.” (8bis)

Giới chức cao cấp của Tòa Đại Sứ Mỹ ở đường Thống Nhất (đối diện với Dinh Độc Lập, nơi ông tổng thống đang nói cho buổi truyền hình trực tiếp) theo dõi đủ nội dung của bài nói chuyện với những lời lẽ nặng nề như trên (bài nói chuyện của một người đang cơn nóng giận chứ không phải ngôn ngữ ngoại giao của một vị nguyên thủ quốc gia, một chính khách lãnh đạo). Tuy nhiên, người Mỹ luôn là một người “bạn tốt“. Họ đã chuẩn bị cho ông một nơi an toàn và cách ra đi kín đáo (cũng không thể kín đáo hơn), thích hợp với “danh dự của một vị nguyên thủ” vì dù gì ông đã giúp họ cởi bỏ gánh nặng chiến tranh qua lần rút quân có tính “danh dự” khỏi Việt Nam theo điều khoản của Hiệp định Paris.

Tuy nhiên, cuối cùng lời của Ông Nguyễn Văn Thiệu có phần chính xác như câu nói bất hủ: “Đừng nghe những gì cộng sản nói mà hãy nhìn những gì cộng sản làm” vì quả thật pháo đang rơi xuống, đang trút xuống như mưa lũ trên đầu người lính… cũng trên đầu người dân. Đạn pháo, hỏa tiễn của binh đoàn quân cộng sản Bắc Việt (thuần là đơn vị quân đội Hà Nội) đang dội xuống như mưa lũ ở Long Khánh – Cửa ngõ phía Đông-Bắc dẫn vào Sài Gòn – nơi bản doanh Sư Đoàn 18 Bộ Binh do Thiếu Tướng Lê Minh Đảo giữ quyền tư lệnh – Vị tướng lãnh thăng cấp cuối cùng của quân lực để chứng thật cùng thế giới và lịch sử: Người Lính nào đã quyết tâm chiến đấu thực hiện nghĩa vụ Bảo Quân An Dân nơi Miền Nam. Và sự sụp vỡ ngày 30 tháng Tư, năm 1975 hoàn toàn vượt tầm đạn bắn ra từ nòng súng chiến đấu của họ – Quân Lực Cộng Hòa.

II- Mặt đối Mặt qua bãi lửa

Bình nguyên tỉnh Long Khánh trải rộng trên vùng rừng miền Đông Nam Bộ, tả ngạn sông Đồng Nai, trước đây vốn là Quận Xuân Lộc thuộc Tỉnh Biên Hòa. Năm 1955 Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa thành hình những đơn vị hành chánh mới, Xuân Lộc tách ra thành một tỉnh riêng với thủ phủ là vị trí của quận đường cũ nay được mang thêm danh xưng là Quận Châu Thành, Tỉnh Long Khánh. Long Khánh nằm trên ngã ba của Quốc Lộ 20 (đi Đà Lạt) và Quốc Lộ I, lối ra Trung, đường đi Hàm Tân, Phan Thiết. Sau thành công đánh chiếm Tây Nguyên (Vùng II) và Vùng I Chiến Thuật do sự rút bỏ hỗn loạn của quân đội Miền Nam (mà thật sự chỉ do quyết định toàn quyền, độc nhất của Tổng Thống NguyễnVăn Thiệu); phía cộng sản rút kinh nghiệm từ Mậu Thân (1968) và Tổng công kích Xuân-Hè 1972 (thất bại do phân tán lực lượng trên nhiều mục tiêu, lẫn lộn giữa “điểm-mặt trận chính” và “diện-mục tiêu phụ”); chiến dịch năm nay, 1975, Bộ Tổng Quân Ủy quân đội Miền Bắc quyết tâm tiêu diệt Miền Nam qua chiến thuật tập kích tấn công từ một điểm xong mở rộng ra, tránh giao tranh nếu gặp kháng cự mạnh để tất cả đồng nhất tiến về Sài Gòn – mục tiêu cuối cùng phải đánh chiếm của cuộc chiến tranh “giải phóng ngụy danh”…

Trung Ương Đảng ra lệnh cho Trung Ương Cục Miền Nam cùng tất cả lực lượng vũ trang phải hoàn thành công cuộc giải phóng Miền Nam. “Xung phong tiến lên tấn công Sài Gòn, mà hiện tại kẻ thù đang tan rã, không còn sức mạnh chiến đấu. Chúng có năm sư đoàn, chúng ta có mười lăm sư đoàn, chưa kể đến lực lượng hậu bị chiến lược. Chúng ta phải chiến thắng bất cứ giá nào: Đấy là quan điểm của Trung Ương Đảng. Khi tôi (Lê Đức Thọ) rời miền Bắc, các đồng chí ở Bộ Chính Trị đã nói rằng: “Đồng chí phải đoạt thắng lợi, đồng chí chỉ trở về với chiến thắng” (9)

Chiến dịch Hồ Chí Minh được đặt tên qua công điện 37/TK do chính Lê Đức Thọ, Chính ủy chiến dịch phổ biến đến với tất cả lực lượng vũ trang đang có mặt tại miền Nam: Mười lăm sư đoàn quân chính quy cộng sản Bắc Việt. Những danh xưng này cần phải viết đủ để trả lời cho những quan điểm chiến lược vạch nên từ Tòa Bạch Ốc, Ngũ Giác Đài, được phổ biến khắp hệ thống truyền thanh, truyền hình thế giới trong bao năm qua: “Chiến tranh Việt Nam là do lực lượng Việt cộng (những người “quốc gia yêu nước Miền Nam” nổi dậy lật đổ chính quyền Việt Nam Cộng Hòa); nếu lực lượng của Hà Nội có kể đến chăng thì cũng chỉ chiếm một phần rất nhỏ, chỉ đóng vai trò “yểm trợ” vì “98% của vấn đề (chiến tranh) là ở Miền Nam, chứ không là Miền Bắc”(10).

Bởi quan niệm như thế kia, nên hôm nay, sau lần ký Hiệp Định Paris hai năm, ba tháng, tình hình quân sự hoá nên tồi tệ như một điều tất yếu, và chắc rằng Lê Đức Thọ được chọn lựa giữ nhiệm vụ chính ủy cho chiến dịch đánh chiếm không phải do tình cờ, vô cớ – bởi đấy là kẻ được thế giới trao tặng giải Nobel Hòa Bình do đã thiết lập cùng Ngoại Trưởng Kissinger cái gọi là hiệp định “tái lập hòa bình tại Việt Nam” kia. Chúng tôi không đủ nhẫn tâm, trân tráo để viết hoa nên nhóm danh tự nầy – Vì nếu thế sẽ được đánh giá là “đã tham gia vào một quá trình lừa lọc – Quá trình đùa cợt và khinh miệt nỗi khổ đau của toàn Dân Tộc Việt” – Khối dân bi thương luôn cầu mong được sống một ngày bình an qua gần nửa thế kỷ sống trong lửa.

Chúng ta trở lại chiến trường với Tướng Quân Lê Minh Đảo và những người lính đang giữa trùng vây của lửa. Ở mặt trận Long Khánh. Ngay từ ngày đầu của năm 1975, Sư đoàn 18 đã phải đối phó với tình trạng căng quân ra giữ vững vùng lãnh thổ trách nhiệm, cùng tập trung lực lượng để chiếm lại phần đất đã bị lấn chiếm. Tiếng gọi là một sư đoàn, nhưng Tướng Đảo chưa hề tập trung đủ lực lượng cơ hữu để điều động trong một cuộc hành quân quy mô cấp sư đoàn. Đầu tháng Ba 1975, Trung Đoàn 48 lại tăng phái cho Sư Đoàn 25 trách nhiệm mặt trận Tây Ninh, vùng Tây Sài Gòn cũng chung Vùng III Chiến Thuật với Sư Đoàn 18. Thế nên khi trận chiến bắt đầu ngày 9 tháng 4, 1975 ông chỉ có một lực lượng sư đoàn (trừ) gồm những đơn vị:

– Chiến đoàn 43 do Đại Tá Lê Xuân Hiếu chỉ huy gồm trung đoàn 43 (trừ Tiểu Đoàn 2/43 đóng giữ các cao điểm quan trọng) gồm Tiểu Đoàn 2/52 (cơ hữu của Trung Đoàn 52;

– Tiểu đoàn 82 Biệt Động Quân Biên Phòng của Thiếu Tá Vương Mộng Long.

Trước khi trận chiến bùng nổ, Thiếu Tướng Đảo khẩn thiết yêu cầu viên tư lệnh quân đoàn, Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn hoàn trả lại Trung Đoàn 48; khi nhận được trung đoàn nầy về, Tướng Đảo xử dụng đơn vị để trấn giữ mặt đông thị xã – đoạn đường từ Xuân Lộc đến thị trấn Giá Rai, mặt Bắc của Ngã Ba Ông Đồn đường đi vào Quận Tánh Linh, Tỉnh Bình Tuy, trung tâm của mật khu Rừng Lá mà từ đầu khởi cuộc chiến (1960) đã là một vùng bất khả xâm phạm, do đấy là hành lang chuyển quân từ đồng bằng, vùng biển (Vùng III của VNCH) lên miền Tây Nguyên.

Phải nói qua đơn vị kỳ lạ này với sự tồn tại tưởng như huyền thoại. Tiểu Đoàn 82 vốn thuộc Quân Khu II Tây Nguyên, khi mặt trận Ban Mê Thuộc bị vỡ, Thiếu Tá Long vừa đánh vừa rút lui xuống đồng bằng. Từ Ban Mê Thuột, Long đưa đơn vị vượt Cao Nguyên Di Linh băng rừng về Bảo Lộc (nằm trên Quốc Lộ 20 khoảng giữa đường đi Đà Lạt), ông tiếp tục băng rừng theo hướng Tây Nam về Long Khánh. Ngày 6 tháng 4 (gần một tháng sau trận Ban Mê Thuột, ngày 10 tháng 3), Tướng Đảo nhận được một công điện khẩn từ các toán tiền đồn. Một đơn vị lạ với y phục Biệt Động Quân xuất hiện. Sau khi kiểm chứng với Bộ Chỉ Huy Biệt Động Quân Quân Khu III (Biên Hòa), Tướng Đảo dùng trực thăng bốc toán quân của Thiếu Tá Long – một tiểu đoàn biệt động chỉ còn khoảng 200 người. Lực lượng Chiến Đoàn 43 có nhiệm vụ phòng thủ nội vi Xuân Lộc hợp cùng các đơn vị của Tiểu Khu Long Khánh do Đại Tá Phúc làm chỉ huy trưởng – Chiến Đoàn 52 của Đại Tá Ngô Kỳ Dũng gồm Trung Đoàn 52 (trừ Tiểu Đoàn 2/52 tăng phái như kể trên) và các đơn vị trinh sát, thiết giáp, pháo binh thống thuộc hành quân. Đơn vị nầy trấn giữ dọc Quốc Lộ 20 (Bắc-Tây Bắc Long Khánh) từ Kiệm Tân (cứ điểm chặn đường từ Đà Lạt xuống) đến Ngã Ba Dầu Giây (giao điểm của hai Quốc Lộ I và 20), nút chặn về Biên Hòa, nơi đặt bản doanh của Quân Đoàn III, Sư Đoàn 3 Không Quân, thị xã cách Sài Gòn 30 cây số về hướng Bắc.

Với quân số như kể trên, Sư Đoàn 18 Bộ Binh quả thật đã gánh một nhiệm vụ quá khổ, dẫu trong thời bình yên chứ chưa nói về tình thế khẩn cấp của tháng 4, 1975. Trước 1972, vùng này được tăng cường một lữ đoàn thuộc lực lượng Hoàng Gia Úc – Tân Tây Lan, Lữ Đoàn 11 Chiến Xa do Đại Tá Patton chỉ huy (con của Danh Tướng Patton của lực lượng thiết kỵ Hoa Kỳ trong Đệ Nhị Thế Chiến) cùng những đơn vị bộ binh, nhảy dù Mỹ; chưa kể đến Sư Đoàn Mãng Xà Vương Thái Lan tăng phái, trách nhiệm vùng Long Thành, dọc Quốc Lộ 15, đường đi VũngTàu. Sư đoàn 18 lại là một đơn vị tân lập (chỉ trước Sư Đoàn 3 Bộ Binh của Vùng I), nhưng những người lính cơ hữu cùng các đơn vị diện địa, tăng phái đã lập nên kỳ tích tưởng không thực vào trong lúc toàn bộ quân lực, đất nước thậm khẩn cấp nguy nan, những đại đơn vị đã vỡ tan vì cách điều quân “di tản chiến thuật” quái đản phát xuất từ Dinh Độc Lập.

Thành lập từ năm 1965, đầu tiên đơn vị có danh hiệu là “Sư Đoàn 10 Bộ Binh”, và quả như số hiệu không mấy may mắn này báo trước, theo báo cáo lượng giá hằng tháng SAME (System Advisor Monthly Estimation) của giới chức cố vấn Mỹ cao cấp trong năm 1967, sư đoàn bị xếp hạng là một trong những đại đơn vị yếu nhất của quân lực. Tính đến năm 1972, hiệu kỳ sư đoàn chỉ nhận một lần tuyên công. Nhưng tất cả điều nầy đã thuộc về quá khứ, năm 1974 đơn vị trở nên thành đơn vị xuất sắc nhất mang giây Biểu Chương Quân Công Bội Tinh (11), bởi một điều đơn giản nhưng vô cùng thiết yếu đã được thực hiện: Tướng Quân Lê Minh Đảo về nắm quyền chỉ huy đơn vị từ sau trận chiến Mùa Hè 1972, và ông đã dựng nên sự biến đổi thần kỳ kia với bản lãnh thực sự của một “võ tướng”: Sống-Chết cùng Binh Sĩ-Đơn Vị.

Phải, Thiếu Tướng Lê Minh Đảo không có gì ngoài những người lính gian khổ dưới quyền, những viên sĩ quan cấp úy trung đội trưởng, với quân số còn lại đúng “mười hai người” chờ đợi để chết trước lần một biển người, chiến xa, đại pháo dập tới (12). Nếu có một người (chỉ một người thôi) để ông có thể trao lòng tin cậy cùng là một vị tướng nổi danh liêm khiết – Thiếu Tướng Nguyễn Văn Hiếu, Tư Lệnh Phó Quân Đoàn III – Nhưng oan nghiệt và uất hận thay, trong giờ phút sôi lửa kia, vị tướng trung chính ấy đã chết vì một viên đạn bức tử tại văn phòng do “sẩy tay, lạc đạn khi chùi súng?!” (13)

Quả thật, Thiếu Tướng Lê Minh Đảo không còn ai, không có ai ngoài tập thể những Người Lính đang quyết lòng giữ chắc tay súng – Nhiệm vụ mà họ xả thân tận hiến từ một thuở rất lâu không hề nói nên lời. Trận thử sức cuối cùng, tháng 4, 1975 tại Xuân Lộc, Long Khánh là một dấu tích sẽ còn lại muôn thuở với lịch sử.

Chúng ta không nói điều quá đáng. Hãy nhìn sang phía đối phương để thử tìm so sánh, từ đấy lập nên phần thẩm định chính xác. Đối mặt binh đội của Tướng Đảo là Quân Đoàn IV cộng sản Bắc Việt do Trung Tướng Hoàng Cầm chỉ huy. Một quân đoàn vừa thành hình trong ngày 20 Tháng 7, 1974 theo sách lược chung của cộng sản Hà Nội – Toàn phần vất bỏ Hiệp Định Paris, quyết thanh toán Miền Nam bằng vũ lực với trận mở màn thử xem phản ứng của chính quyền, quân đội Mỹ: Tấn Công Thị Xã Phước Long thuộc tỉnh Phước Bình (Đông Bắc Sài Gòn, 12 Tháng 12, 1974). Sau lần toàn phần chiếm đóng Phước Long (6 tháng 1, 1975) mà chính phủ Mỹ hoàn toàn im lặng, cũng tương tự như phản ứng thụ động của Hạm Đội 7 Mỹ để mặc Hải Quân Trung Cộng chiếm đóng Trường Sa, tấn công tiêu diệt Hạm Đội Việt Nam, Bộ chính trị trung ương đảng cộng sản Hà Nội quyết định thanh toán Miền Nam bằng súng đạn, điển hình qua câu nói khoái trá của Phạm Văn Đồng trong buổi hội đầu năm 1975: “Cho kẹo Mỹ cũng vào lại Việt Nam“. (14)

Hoàng Cầm chủ nhân của loại bếp ém khói, là tiểu đoàn trưởng của lực lượng tấn công vào trung tâm phòng thủ Điện Biên Phủ năm 1954; khi chiến tranh khởi cuộc (1960), Hoàng Cầm giữ chức tư lệnh Sư Đoàn 312, chuyển vào Nam năm 1965 để chỉ huy Sư Đoàn 9 khi đơn vị này mới thành lập; Mậu Thân 1968, Cầm phụ trách tham mưu của Trung Ương Cục Miền Nam; Tổng Công Kích 1972, tiếp lên chức tham mưu trưởng và bây giờ, kể từ 1974 tư lệnh Quân đoàn 4, trách nhiệm tấn công Sài Gòn từ mặt Đông Bắc qua ngõ Long Khánh của Tướng Đảo. Tướng Hoàng Cầm có dưới tay ba sư đoàn: 6, 7 và 341, chưa kể lực lượng địa phương, yểm trợ thuộc Quân Khu 7 cộng sản. Tương quan lực lượng coi như 4 đánh 1. Nhưng cũng không hẳn thế, Tướng Hoàng Cầm còn được cả một bộ chính trị đảng cộng sản Hà Nội trực tiếp chỉ đạo, yểm trợ và tăng cường với Văn Tiến Dũng, Tổng tham trưởng quân đội Miền Bắc, Phạm Hùng, bí thư Trung ương cục Miền Nam, Lê Đức Thọ ủy viên Bộ chính trị, Bí thư chiến dịch… Tất cả đang có mặt tại Lộc Ninh, nơi chỉ cách chiến trường Xuân Lộc hơn 100 cây số đường chim bay.

Thọ vừa đến từ Hà Nội không phải theo “đường mòn Hồ Chí Minh” với ba lô trên lưng như cách “mô tả” thành thạo trong những cuốn sách “nghiên cứu” về chiến tranh Việt Nam; Thọ đến từ sân bay Nam Vang, đi xe hơi đến biên giới Việt-Miên, xong dùng Honda tới Lộc Ninh (để tránh phi cơ và biệt kích của phía VNCH phát hiện). Trước những nhân vật kể trên, Trần Văn Trà, Tư lệnh Khu 7 báo cáo về tình hình quân sự. Phạm Hùng hỏi về tiếp liệu đạn dược; viên cán bộ phụ trách hậu cần trả lời: “Báo cáo đồng chí, ta có đủ đạn để bắn (bọn ngụy) sợ đến ba đời…” (15)

Đấy không phải là lời nói đùa, vì sau này khi thắng lợi nghiêng về phía quân Cộng Hòa, bộ tư lệnh mặt trận (cộng sản) đã cho thay thế Tướng Hoàng Cầm bằng Trần Văn Trà, vốn là người chỉ huy chiến trường miền Đông từ chiến tranh 1945-1954; và tăng cường thêm Sư Đoàn 325, đơn vị tổng trừ bị quân đội miền Bắc, lực lượng nỗ lực chính đánh chiếm Nha Trang, Phan Rang đầu tháng 4, và Trung Đoàn 95B biệt lập từ vùng châu thổ Sông Cửu Long kéo lên tăng cường – nâng tỷ số tác chiến (ban đầu) lên thành 5 đánh 1.

III- Trận Đánh

Thiếu Tướng Tư Lệnh Lê Minh Đảo chuẩn bị chiến trường đến mức được coi là toàn hảo. Lấy kinh nghiệm đau thương của những đơn vị bạn thuộc hai Quân Khu I và II: Sở dĩ các đơn vị này mất sức chiến đấu mau chóng vì không có người lính nào còn được khả năng chiến đấu khi trong tay họ thay vì nắm chắc vũ khí bấy giờ chỉ để bế đứa con nhỏ, lưng cõng cha, mẹ già bị nạn. Bằng tất cả mọi phương tiện có được, Tướng Đảo cho di tản toàn bộ gia đình binh sĩ về hậu cứ Long Bình và tổ chức một hậu phương an lành, tương đối đầy đủ cho tất cả. Cất bỏ được nặng gánh gia định, người lính chỉ còn một hướng trước mặt – hướng địch quân tiến tới.

Pháo binh là một yếu tố chiếm giữ phần lớn quyết định sự thắng, bại chiến trường. Một khuyết điểm mà quân lực cộng hòa thường vấp phải là luôn tập trung pháo binh lại một địa điểm để dễ chỉ huy, điều động. Nay Tướng Đảo thay đổi chiến thuật, ông phân tán pháo binh lên những cao điểm như Núi Thị (bên cạnh Đường 20 lên Định quán, đi Đà Lạt), đồi Mẹ Bồng Con (cạnh Quốc Lộ I, đường về Biên Hòa), những cao điểm phía Đông và Đông Nam Xuân Lộc, nơi ngã ba Tân Phong (cũng là một vị trí di động của Bộ chỉ huy; phần sau của chiến trận, giai đoạn rút lui về Bà Rịa (Phước Tuy), dọc Tỉnh Lộ 2; những vị trí pháo này sẽ yểm trợ vô cùng hữu hiệu cho đoàn quân di tản). Tuy phân tán nhưng khi tác xạ, những vị trí pháo này cùng bắn một lượt nên “tập trung được hỏa lực vào một mục tiêu” mà địch không dò tìm, phát hiện được vị trí pháo bắn đi (để phản pháo).

Thứ đến yếu tố an toàn cho Bộ chỉ huy là một yêu cầu tối thượng phải thực hiện. Tướng Đảo cho thiết lập những vị trí chỉ huy khác nhau được đánh số 1,2,3… Khi một vị trí bị pháo, ông cho di chuyển qua vị trí thứ hai, và luôn thay đổi trong suốt trận đánh (vị trí thứ nhất ở nhà ông trong thị xã; cái thứ hai ở Tân Phong; thứ ba trong một vườn vú sữa phía Đông của vị trí thứ hai). Để không cho đối phương an toàn trong vùng họ chiếm giữ, ông tổ chức những trung đội thám sát hoạt động đằng sau phòng tuyến địch, chỉ định vị trí tập trung quân, vị trí pháo binh (địch) xong gọi pháo binh (bạn) bắn tiêu diệt. Điểm cao nhất của thị xã, Trường Trung Học Hòa Bình, ông thiết trí trung tâm đề kháng với Đại Đội Trinh Sát Sư Đoàn do viên đại úy cứng cựa nhất trong số những sĩ quan đại đội trưởng, Đại Úy Lê Phú Đa, Khóa 25 Đà Lạt. (16)

Và cuối cùng, bảo mật liên lạc truyền tin của ta, khai thác truyền tin của địch để phát hiện ý đồ, cách điều quân, các hướng tiến quân của đối phương để chặn đánh, giải quyết chiến trường, phá vỡ mưu định tấn công của giặc. 5 giờ 40 sáng ngày 9 tháng 4, 1975- “Giờ H của Ngày N”, chiến dịch đánh chiếm Xuân Lộc bắt đầu (17) với một trận mưa pháo 2.000 quả đạn từ nhiều vị trí cùng đổ xuống trung tâm thị xã Xuân Lộc lập lại cảnh tàn sát của một ngày năm 1972, cũng buổi tháng 4 tại An Lộc.

Chính xác một giờ sau, 6 giờ 40, tám xe tăng được lính Trung Đoàn 165, đơn vị tiền phong Sư Đoàn 7 tùng thiết xông vào trung tâm thị xã Xuân Lộc, nơi đặt bộ chỉ huy Sư Đoàn 18. Lính cộng sản ngỡ rằng sau đợt pháo hung hãn, và đội hình ào ạt, bề thế của những chiếc T54, thế nào cũng sẽ tràn ngập mục tiêu dễ dàng như đã xảy ra ở những mặt trận “không cần giao tranh” nơi Vùng I và II của tháng 3 vừa qua. Họ cũng được học tập, “Sư Đoàn 18 chỉ là một đơn vị bộ binh tầm thường, nếu không nói là yếu kém.”

Nhưng hoàn toàn không phải là như thế, những xe tăng này mắc kẹt giữa bãi mìn của một hệ thống tám lớp kẽm gai và mìn bẫy mà Thiếu Tướng Đảo đã sẵn bố trí; không những chỉ thế, những phi cơ A37 và F5 từ phi trường Biên Hòa được gọi đến chỉ sau ít phút cất cánh, và trên đồng trống, giữa những khu rừng cao su đều đặn, đội hình của toán quân tùng thiết, chiến xa cộng sản trở nên thành mục tiêu lộ liễu, trần trụi. Nhưng lính bộ binh của Trung Đoàn 165 cộng sản không nhận ra chỉ dấu thất bại, họ tiếp tục tiến lên đợt xung phong thứ hai với những chiến xa còn lại. Lính Đại Đội 1, Tiểu Đoàn 3, Trung Đoàn 48 đã đợi sẵn với “hỏa tiễn 2.75 ly” đặt trên giá hai chân. Lưu ý yếu tố một đại đội đương cự một trung đoàn – tức là tỷ lệ “1 chống 16”; và hỏa tiễn 2.75 vốn là vũ khí cơ hữu của trực thăng vũ trang, sau khi quân đội Mỹ rút đi, khối lượng hỏa tiễn này trở nên thặng dư, Thiếu Tướng Đảo biến chế thành vũ khí bộ binh dùng để chống chiến xa bằng cách đặt trên giá tre hai chân, kích hỏa bằng pin, bắn hạ ngay những chiến xa nầy trên tuyến phòng thủ cuối cùng, nếu như thoát được những lớp mìn bẫy tiền tuyến.

Mặt Đông của thị xã, dọc Quốc Lộ I, Trung Đoàn 209 (cũng của SĐ 7) số phận cũng không mấy khả quan hơn – bởi họ gặp một đơn vị đang cơn uất hận – Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân của Thiếu Tá Vương Mộng Long. Lính biệt động đánh để trả hận lần lui quân bi thảm của tháng trước từ mặt trận Ban Mê Thuột, hai tiểu đoàn của Trung Đoàn 209 bị chôn chân trước tuyến phòng thủ của 82 Biệt Động và Tiểu Đoàn 3/48 của Tướng Đảo. Sau nầy Hoàng Cầm ghi lại trận đánh trong Hồi Ký Lịch Sử Quân Đội Nhân Dân: “Những đợt xung phong đánh vào sở chỉ huy của Sư Đoàn 18 và hậu cứ Trung Đoàn 52 ngụy đều không thành công. Chiến sĩ ta giành giựt với đich từng đoạn giao thông hào, qua mỗi căn nhà, căn phố. Điều đáng ngạc nhiên là cuộc tấn công đã bị chặn lại không phải chỉ do pháo binh và không quân yểm trợ, hệ thống phòng thủ vững chắc và sức chiến đấu ngoan cố của Trung đoàn 43 ngụy, nhưng điều đáng nói là Đảo đã tổ chức cho từng người lính thuộc sư đoàn mỗi một vị trí chiến đấu..” (18)

Mặt trận phía Bắc của Sư Đoàn 341 tương đối khả quan hơn, một phần địa thế không thích hợp cho việc bố phòng của Chiến Đoàn 52 do Trung Tá Ngô Kỳ Dũng chỉ huy. Viên tư lệnh sư đoàn cộng sản Trần Văn Trấn đi theo với Trung Đoàn 266, đích thân chỉ huy cuộc tiến công. Bộ đội cộng sản tùng thiết thoạt tiên mở được đường qua lớp kẽm gai, mìn bẫy thứ nhất tiến gần đến vùng “Hố Heo Rừng”, nơi Quốc Lộ I chạy một đường quanh gắt trước khi đổ vô thị xã. Nhưng quả như ước tính của Tướng Đảo, đại đội trinh sát của Đại Úy Đa giăng một hàng lưới lửa bằng đại liên 50 chống chiến xa, hiệp cùng máy bay AC119 Hỏa Long tự tầng trời đan kín thêm bằng đại liên Minigun bốn nòng chống biển người vô cùng hữu hiệu.

Sư Đoàn 341 vốn là một sư đoàn tân lập gồm những thanh thiếu niên vùng Quảng Bình vào Nam do nhu cầu “chính trị-quân sự” hơn là một đơn vị tác chiến thuần thành, nên đám tân binh thiếu kinh nghiệm của đơn vị này quá hoảng sợ hỏa lực của đại đội trinh sát, phi cơ Hỏa Long chạy dạt qua phần đất của các Đại Đội 340 và 342 Địa Phương Quân Tiểu Khu Long Khánh. Thật không may, đấy lại là những đại đôi địa phương cự phách của tiểu khu, cũng là của vùng chiến thuật, nên cuối cùng đám lính trẻ tuổi của hai Tiểu Đoàn 5 và 7 thuộc Trung Đoàn 266 phải tan hàng, chạy vào lẫn trốn trong khu vực dân cư, bến xe, nhà thờ, trung tâm thị xã. Đại Đội Trinh Sát của Đại Úy Lê Phú Đa lập lại thành tích “1 chống 16 – Một đại đội chặn đứng mũi tiến công một trung đoàn.”

Tưởng nên nói rõ cũng không thừa chi tiết: Theo tổ chức “tứ chế” của quân đội cộng sản, một tiểu đoàn có 4 đại đội; một trung đoàn có 4 tiểu đoàn. Vậy Trung Đoàn 266 kia đã xử dụng đến 16 đại đội để tấn công một đại đội trinh sát của Đa. Cho dù rằng Sư Đoàn 341 báo cáo đã chiếm được một vài cơ sở trong thành phố như dinh Tỉnh Trưởng, bến xe, khu chợ, nhưng đến 11 giờ cùng ngày, Thiếu Tướng Đảo tương kế tựu kế, sử dụng những đơn vị trừ bị, Tiểu Đoàn 1/48 và chiến xa của Chi Đoàn 1/5 đẩy Trung Đoàn 270 ra khỏi ngoại vi thị xã; phần bên trong Xuân Lộc. Ông phối hợp với vị Tỉnh Trưởng, Đại Tá Phúc dùng hai đại đội địa phương tăng cường Tiểu Đoàn 1/43 diệt gọn tất cả các ổ chống cự lẻ tẻ do những đám nhỏ của Trung Đoàn 266/Sư Đoàn 341 xâm nhập được nhân cơ hội đợt pháo kích sáng sớm.

Tổng kết ngày chiến trận đầu tiên, chỉ riêng Sư Đoàn 341 đã bị thiệt hại khoảng 600 chết và bị thương, cùng một số tù binh (ba mươi người). Đám thanh thiếu niên nông thôn miền Bắc ngồi ngơ ngẩn giữa nhà cửa, gạch ngói tan vỡ do đạn pháo họ vừa thực hiện, hiểu mường tượng ra về một phần ý nghĩa của công tác “giải phóng” sau lần giao tranh với quân lực Miền Nam. Buổi chiều, Thiếu Tướng Đảo khi đi thanh sát mặt trận bên trong thị xã, ông không quên ra lệnh cho Phòng Quân Tiếp Vụ Sư Đoàn trích một số khẩu phần lương khô để nuôi ăn đám tù binh còn rất mới. Chiều tối ngày 9 tháng 4 không hẳn là thời gian nghỉ ngơi, phía cộng sản lại dụng tâm gây căng thẳng bằng cách pháo vào khu vực thị xã thêm một loạt liên tục, cũng khoảng 2.000 ngàn quả đạn trên khắp các vị trí, không loại trừ khu vực dân chúng, nhà thương, chùa, nhà thờ… Những địa điểm mà họ ước tính dân chúng hay tập trung để trú ẩn do có ý nghĩ tội nghiệp cam chịu: “Việt cộng sẽ tránh các nơi dân cư đông đúc, chốn tôn nghiêm, nhà thương trường học…”

Năm 1972, ở An Lộc người dân đã nghĩ như thế và pháo cộng sản cũng đã đánh giá Bệnh Viện Bình Long là một mục tiêu phải bị hủy diệt vì bọn ngụy sẽ tải thương người bị thương đến đấy. Đêm 9 rạng 10, ngày 11 tháng Tư, 1975 ở Xuân Lộc cuộc pháo kích cũng mang chung một tính chất với cường độ ác liệt hơn – do để yểm trợ cho bộ binh tiến chiếm bởi Bộ tư lệnh Quân Đoàn 4, cộng sản vẫn không tin quân phòng thủ Xuân Lộc đứng vững sau hai cuộc tấn công.

5 giờ 30 sáng ngày 11, đợt tấn công thứ hai bắt đầu. Sư Đoàn 341 tiến chiếm từ hướng Tây Bắc dọc Quốc Lộ 20; Sư Đoàn 7 từ mặt Bắc đâm thẳng vào thị xã; Sư Đoàn 6 từ hướng Đông, chân núi Chứa Chan nơi đặt Bộ tư lệnh chiến dịch của Quân Đoàn 4. Tất cả ba mũi dùi đồng hẹn ở điểm đến – trung tâm Thị Xã, Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 18. Kết quả cũng tương tự như ngày 9, quân Cộng Hòa giữ chắc vị trí, có khác chăng thêm một số chiến xa bị bắn hạ trên tuyến phòng ngự và một số tù binh bị bắt. Những ngày chẳng mấy vinh quang này được Hoàng Cầm viết lại trong Lịch Sử Quân Đội Nhân Dân: “Trong ba ngày đầu tiên của chiến dịch, Sư Đoàn 7 bị tổn thất 300 chiến sĩ; Sư 341 thiệt hại 1.200… Cụ thể tất cả pháo 85 và 57 ly đồng bị phá hủy “(19).

Cùng lúc Văn Tiến Dũng cũng phải thú nhận trong Đại Thắng Mùa Xuân: “Từ ngày đầu mặt trận Xuân Lộc đã diễn ra vô cùng gay go, ác liệt. Những sư đoàn của ta tổ chức nhiều đợt tấn công vào thị xã, đánh đi đánh lại để chiếm từng vị trí, và phải đẩy lui nhiều cuộc phản công của địch.” (19)

Cùng ngày Không Quân VNCH cũng góp thêm vào chiến thắng qua hủy diệt hơn 100 xe quân sự tăng viện cho mặt trận. Ở Sài Gòn, không khí lạc quan hừng lên, Tổng Thống Thiệu thúc dục Tướng Toàn cố gắng giữ vững Xuân lộc để có thế đảo ngược tình thế… để “B52 có thể trở lại!” Tướng Toàn xử dụng Lữ Đoàn 3 Thiết Kỵ của Chuẩn Tướng Trần Quang Khôi từ Trảng Bom cố mở đường tiếp cận với cánh quân Xuân Lộc, nhưng lực lượng thiết kỵ không thành công trong việc phá chốt ở Ấp Hưng Lộc.

Không thành công trong việc dùng chiến xa để giải toả áp lực cộng sản tại Xuân Lộc, Tướng Toàn xử dụng một thành phần hữu hiệu hơn – Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù gồm bốn tiểu đoàn 1, 2, 8 và 9 được Tiểu Đoàn 3 Pháo Binh Dù trực tiếp yểm trợ. Cuộc hành quân không vận lớn nhất của trận chiến thực hiện trong hai ngày 11, 12 đưa đơn vị tổng trừ bị cuối cùng của Miền Nam vào trận. (20)

Sự xuất hiện của lực lượng nhảy dù tại trận địa đặt nên vấn đề nghiêm trọng đối với tập thể lãnh đạo Bộ tư lệnh chiến dịch của Cộng quân. Chiều ngày 11 tháng Tư, Văn Tiến Dũng, Lê Đức Thọ, Trần Văn Trà duyệt soát lại kế hoạch tấn công theo chiều hướng mới. Dũng có ý kiến: “Nếu địch tăng cường lực lượng phòng thủ Xuân Lộc thì ta không cần phải tập trung lực lượng để tấn công chúng nữa… Chúng ta nên sử dụng sức mạnh của mình để đánh những lực lượng ngoại vi (hàm chỉ Lữ Đoàn I Dù) trước khi chúng đặt chân xuống đất. Cũng nên dùng pháo tầm xa phá hủy căn cứ Biên Hòa để máy bay chúng không thể cất cánh.”

Nội dung buổi hội cũng bàn thảo lại chiến thuật tấn công chính diện mà đã không đem lại kết quả từ bốn ngày qua. Hẳn Trà và giới chức lãnh đạo Trung ương Cục không quên lần tấn công thất bại An Lộc trong Mùa Hè 1972, cũng trên địa bàn Quân Khu III này với lực lượng Quân Khu 7 cộng sản (21). Theo quan điểm của Dũng, Tướng Cầm, Tư lệnh Sư Đoàn 7 ra lệnh cho các Trung Đoàn 165, 266 tiếp tục giữ vững vị trí đang trách nhiệm để sau đó từ từ rút đi, riêng Trung Đoàn 209 trở hướng tấn công vào đơn vị nhảy dù vừa nhảy xuống trận địa.

Tóm lại, Bộ tư lệnh chiến dịch quyết định mở một mặt trận giả (để đánh lạc hướng quân phòng thủ) bằng hai cuộc tấn công chính diện vào vị trí đóng quân của Tiểu Đoàn 1/43 (có nhiệm vụ giữ thị xã) để phía quân đội Cộng Hòa nghĩ rằng phía cộng sản vẫn cố công dứt điểm Xuân Lộc theo như kế hoạch ban đầu – Trong khi chuyển hướng tấn công bằng cách đi vòng Xuân Lộc để (thực sự) tiến thẳng về Sài Gòn. Trần Văn Trà thay thế Hoàng Cầm để trực tiếp thực thực hiện kế hoạch.

Ngày 13 tháng 4, Trà họp ban tham mưu của Quân Đoàn 4 để thông báo về việc thay đổi kế hoạch với luận cứ chính xác: “Địch tăng cường phòng thủ Xuân Lộc sẽ gây nhiều bất lợi cho ta nếu cứ tiếp tục tấn công thị xã. Thế nên, nếu chúng ta tiến chiếm Dầu Giây (Nam Xuân Lộc, trên Quốc Lộ I, lối về Biên Hòa) thì Xuân Lộc không còn nằm trong tuyến phòng thủ của chúng nữa. Đồng thời ta xử dụng pháo tầm xa 130 ly pháo sân bay Biên Hòa thì địch sẽ bị hạn chế khả năng cho phi cơ xuất kích yểm trợ.” (22)

Trong chiều hướng của kế hoạch nầy, lực lượng cộng sản dần rút đi, nới rộng vòng đai phòng thủ của thị xã. Tướng Đảo lập tức ra lệnh cho các đơn vị chiếm lại những vị trí bị phía cộng sản chiếm giữ, tiếp nhận thực phẩm, quân trang, đạn dược và tải thương. Cũng quả thực ông không biết được sự thay đổi quan trọng về kế hoạch của Trung Ương Cục Miền Nam chỉ đạo từ Hà Nội. Nhưng ông làm được gì hơn với chức vụ tư lệnh một sư đoàn bộ binh trong giờ phút nguy nan nhất của cuộc chiến – mặt nổi của lần xếp lại “một trật tự mới trên toàn thế giới”.

Hai trái bom CBU 55 “Daisy Cutter” nặng 15.000 cân Anh rơi xuống từ lòng chiếc C130 phá toang một vùng rộng lớn trong phòng tuyến của quân cộng sản dọc Quốc Lộ 20 tăng cường thêm sự quyết tâm giữ vững Long Khánh của phía quân Cộng Hòa, nhưng cũng chính là màn khói (bất đắc dĩ phải chấp nhận) giúp cho lần rút đi của bộ đội cộng sản với 235 xác đếm được trên trận địa thêm phần hợp lý. Không một ai trong Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn III ở Biên Hòa, nơi Phòng hành quân Tổng Tham Mưu Sài Gòn có ý niệm địch sẽ siết chặt Biên Hòa-Sài Gòn với hai gọng kềm (hướng Bắc và Đông) bằng cách cắt Quốc Lộ I ở Dầu Giây và Quốc Lộ 15 ở Long Thành qua thay đổi quan niệm chiến thuật theo tình hình thực tế nên bỏ qua Long Khánh nơi họ đã thực sự thất bại – và biến thất bại nầy thành một kế nghi binh.

Kế sách này càng thêm hữu hiệu khi mặt trận được tăng cường thêm hai đơn vị mới, Sư Đoàn 325, tổng trừ bị quân đội Miền Bắc, đơn vị chủ lực trong trận tấn công Nha Trang, Phan Rang ngày đầu tháng 3; và Trung Đoàn 95B biệt lập từ đồng bằng Sông Cửu Long kéo lên tăng cường. Tòa Đại Sứ Mỹ phấn khởi trước chiến thắng Long Khánh cố nài Quốc Hội Mỹ chuẩn chi $722 triệu quân viện khẩn cấp cho Việt Nam, nhưng trong phiên họp ngày 17 tháng 4, Ủy Ban Quân Sự Thượng Viện bác bỏ thẳng thừng như câu nói bất cận nhân tình của hai Thượng Nghị Sĩ Jacob Javits và Edmund Muskie trong show truyền hình đại chúng “Face the Nations”: “Cho tiền để lo việc di tản thì bao nhiêu cũng được chứ một xu cho ngân sách quân sự cho Thiệu cũng không có”. (23)

Hai con người nầy trong ngày 15 tháng Ba vừa qua cũng đã “cứu giúp” toàn bộ Dân Tộc Campuchia với giá tiền đúng $82,5 triệu đô-la Mỹ. (23bis).

Đây là quan điểm thống nhất của Thượng lẫn Hạ Viện Mỹ hiện do Dân Chủ nắm đa số mà không thiếu mặt hôm nay với Joe Biden, hai nhiệm kỳ Phó Tổng Thống thời Obama (2008-2016), cũng là ứng viên đảng Dân Chủ sáng giá nhất của trong cuộc bầu cử năm nay 2020.

Chiến trận lắng xuống, các đơn vị cộng sản dần rút đi, chỉ còn pháo kích cầm chừng vào các vị trí phòng thủ. Ngày 20 tháng 4, Tướng Toàn và Đại Tá Thọ, Trưởng Phòng Hành Quân Quân Đoàn III đích thân đến giao cho Tướng Đảo một lệnh mơ hồ như vô cùng kích động: Rời bỏ Xuân Lộc về bảo vệ mặt trận Sài Gòn. Hóa ra quân cộng sản đã hoàn tất kế sách bỏ trống Xuân Lộc từ một tuần trước. Thiếu Tướng Đảo phản đối, nhưng viên tướng tư lệnh khẳng định: Đó là lịnh của ông Thiệu! Thiếu Tướng Lê Minh Đảo chỉ có đúng nửa ngày để hoàn tất một kế hoạch rút quân bao gồm lực lượng một sư đoàn cơ hữu cùng các đơn vị tăng phái và yểm trợ, chưa kể thành phần diện địa của Tiểu Khu Long Khánh. Hành quân rút lui là hình thái hành quân khó nhất – Bởi đã mang sẵn mầm thất bại – Những danh tướng của quân sử thế giới mấy ai thực hiện được kể cả Hốt Tất Liệt, Napoléon, Rommel…

Nhưng như một phép mầu – một mầu nhiệm do trí tuệ và dũng lược kết hợp nên thành, cộng với lòng yêu quý chiến sĩ, đơn vị của một tướng lãnh trên chiến địa. Thiếu Tướng Lê Minh Đảo đã hoàn tất cuộc lui binh về Bà Rịa, bảo toàn đơn vị, vũ khí, thậm chí đến hai khẩu pháo 175 ly hạng nặng cũng giao lại đủ cho quân đoàn. Cũng một phần, lực lượng giữ phần hậu vệ đoàn di tản là Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù do Trung Tá Nguyễn Văn Đỉnh chỉ huy. Trung Tá Đỉnh là Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 6 Dù – Đơn vị đã giải tỏa An Lộc trong trận đánh ngày 8 tháng 6, 1972 mà đơn vị cộng sản đóng chốt ở Xa Cam, Nam An Lộc chỉ còn đúng một người – Tù binh tên Nguyễn Văn Tiền.

Cũng có một điều cần ghi thêm là Chuẩn Tướng Lê Quang Lưỡng, Tư Lệnh Sư Đoàn Dù đã bất chấp lệnh của Tổng tham mưu, vất bỏ mưu đồ “xé lẻ” đơn vị bách thắng này của ông Thiệu (do lo sợ một cuộc đảo chánh), nên đã gởi một đơn vị nhảy dù khác – Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù do Trung Tá Nguyễn Lô. Lô “lọ rượu” đơn độc đưa quân đi ngược Tỉnh Lộ 2 (từ Bà Rịa – Phước Tuy lên Long Khánh) đón đoàn quân di tản. Lô dẫn quân đi như ánh chớp, và Tiểu Đoàn 7 Dù là đơn vị cuối cùng chặn giặc nơi Cầu Xa Lộ, cửa ngõ chính của Sài Gòn ở hướng Bắc.

IV- Kết Từ

Khi Dương Văn Minh ra lệnh đầu hàng, buông súng, Thiếu Tướng Lê Minh Đảo dừng quân trên xa lộ Biên Hòa, nhìn vào hướng Trường Bộ Binh Thủ Đức, Long Thành, Bà Rịa, và xa kia Xuân Lộc, Long Khánh, gần hơn Trung Liệt Đài của Nghĩa Trang Quân Đội, Long Bình… Ông thấy thấp thoáng bức tượng Tiếc Thương (24) tạc hình Người Lính Chờ Đợi in hình trong không gian mờ khói đạn. Người lính cuối cuộc chợt thoáng nhớ những lời thơ ngắn “Vì anh là lính áo rằn. Ra đi nào biết mấy trăng mới về…”

Những câu thơ của em ông, Trung Tá Lê Hằng Minh – Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 2 Thủy Quân Lục Chiến “Trâu Điên”, người lính đã ra đi từ ngày Hè năm 1966 nơi chiến trường Trị Thiên, ở chân Cầu Câu Nhi Phường. Cầu thuộc Phường Câu Nhi, Phong Điền, Thừa Thiên là nơi đâu? Rất nhiều người lính đã ra đi, không trở về từ những vùng đất không mấy ai biết. Hôm ấy, sáng 30 Tháng Tư năm 1975, rất nhiều người lính không còn chốn trở về, trong số có Anh, Người Lính mất Quê Hương – Người Lính Sống – Chết một lần với Miền Nam. Với Việt Nam.

Phan Nhật Nam

Viết lại Cali, 19. Tháng 3, 2020

Ghi Chú:

(1) Nguyễn Đình Khánh. Nhật Báo Chiêu Dương. NSW, AU: Nov 2000.

(2) Nguyễn Đức Phương. Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập. Toronto, CA: LàngVăn, 2001.

(3) Phạm Huấn. Những Uất Hận Trận Chiến Mất Nước 1975. San José, US: 1988.

(4) Phạm Phong Dinh. Chiến Sử Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. MB, CA: 2001.

(5) George J. Veith & Merle. L. Pribbenow. “Fighting is an Art”: The ARVN Defense of Xuan Loc, April 9-21, 1975 Draft. PA, USA: 2001.

(6) Olivier Todd. Cruel April The Fall of Saigon. W.W. Norton & Co N.Y. US: 1987

Olivier Todd. (ibid) p. 263.

Olivier Todd. (ibid) p. 260.

Olivier Todd. (ibid) p. 258.

(7)Nguyễn Tiến Hưng & Jerrold L. Schecter. The Palace File. Harper & Row N.Y. US: 1986. p. 393.

Nguyễn Tiến Hưng & Jerrold L. Schecter. (ibid) p.331.

(8 & 8bis) Olivier Todd (ibid) p. 296.

(9) Olivier Todd. (ibid) p. 249.

(10) Richard H. Schultz. The Secret War Against Hanoi. Collin N.Y. US: 1990 p.39.

(11) Nguyễn Đức Phương. (ibid) trg. 127.

(12) Phạm Huấn. (ibid) tr.127(13) George J. Veith & Merle. L. Pribbenow. (ibid) p.14

(14) Phan N. Nam. Những Chuyện Cần Được Kể Lại. Tú Quỳnh CA, US: 1995 trg. 2-15

(15) Olivier Todd. (ibid) pp. 246-247.

(16) George J. Veith & Merle. L. Pribbenow (ibid) p.13

(17) George J. Veith & Merle. L. Pribbenow (ibid) p.15

(18) George J. Veith & Merle. L. Pribbenow (ibid) p.16

(19) George J. Veith & Merle. L. Pribbenow (ibid) p.1

(20) Phạm Huấn (ibid) trg.114-121

(21) George J. Veith & Merle. L. Pribbenow (ibid) p.21

(22) George J. Veith & Merle. L. Pribbenow (ibid) p.22

(23&23bis) Olivier Todd. (ibid) pp. 251-287

(24) Nguyễn Thanh Thu. Tượng “Tiếc Thương”. Nghĩa Trang Quân Đội Long Bình, Việt Nam: 1968.

Posted in Linh Tinh | Leave a comment

Tháng 4- HLC cảm nhận “Huế và Em” của Phan Ni Tấn- Bài Thơ rất hay ( (Tựa do HLC đặt) April 22, 2024

Copy từ Facebook Ngoan Lão ( Phan Ni Tấn)

Tan Phan Ni

Mời đọc lại thơ tháng Tư về Huế, quê Mạ tôi và lời bình thật cảm khái của Hoàng Lan Chi.

HUẾ VÀ EM

phan ni tấn

Một đời anh chắc chẳng bao giờ tìm ra nỗi Huế

Bởi sinh ra chân anh đã có những con đường

Những con đường không kịp nở những đóa hướng dương

Chở súng đạn ra ngoài mặt trận

Sau chiến tranh những trận đánh đều trở nên luộm thuộm

Người ta cất các chiến cụ và những cuộn băng trong các viện bảo tàng

Anh trở về uớc mơ tàn tạ dưới chân

Ngó ra Huế chút Huế cũng đành hanh xa vắng

Con đường Huế bây chừ dù vẫn mưa vẫn nắng

Vẫn hương sen bay trên khắp mặt hồ

Nhưng lâu rồi liệu Huế vẫn còn em ngọt ngào giọng nói

Còn đôi mắt sáng, ngấn cổ cao, thả suối tóc trôi huyền?

Một đời anh chắc chẳng bao giờ quên em quyến luyến

Ngày chia ly tay anh đã có bão giông rồi

Vòng thanh xuân đâu còn quay đều trong sân chơi

Thôi thì nhai chút giọng cười Cẩm Lệ

Sông Hương núi Ngự là khuôn mặt ngó nghiêng của Huế

Cửa Thượng Tứ là ngõ hẹp chở tình em qua cầu

Chiếc nón bài thơ rụt rè che bớt chỗ khổ đau

Em xuống đò rồi Huế cũng trôi xa ngái

Huế của ngày ấy bị trói thúc ké bằng những cuộn dây thép gai

Và bạo lực được viết bằng những nhát cuốc

Để câu mái đẩy khóc thành câu đứt ruột

Nước mắt khô chan trên mỗi mảnh đời

Trải tuế nguyệt Huế hồi sinh như nếp nhăn già cỗi

Vẫn nhọc nhằn trầm mặc thiếp sương đêm

Huế cổ kính ngồi chồm hổm xõa tóc hương bồ kết

Gội đền đài thành quách rêu phong thành hoài niệm

Một đời anh chắc chẳng bao giờ tìm ra nỗi tím

Áo tím than bay trong gió phất phơ buồn

Em bình minh hay chừ em lom khom

Mà Đồng Khánh cũng già theo tiếng thở dài Quốc Học

Nước sông Hương chia đời nhau hai nhánh tóc

Hút tiếng đò đưa chim lẻ bạn kêu sầu

Chợ Đông Ba ai dời ra bãi dại

Để Huế buồn biền biệt tím mãi đâu.

Phan Ni Tấn- Huế và Em

Hoàng Lan Chi viết:

Mọi người đang hoà với sôi động trong nước. Có nhiều người hân hoan khi thấy biểu tình rầm rộ. Tôi ngậm ngùi khi thấy bạn ta, sao quá đỗi thiệt thà. Bao nhiêu năm với cộng nô đè nén, dân chúng ta, có bạo động cũng không thể thế đâu. Chỉ chớp mắt cũng đoán được đâu là sự thật. Chỉ tàu cộng với âm mưu lộ liễu.

Giải pháp nào đây cho một Việt Nam? Tôi không nghĩ Trung cộng sẽ chiếm Việt vì tôi vẫn cho rằng Miên, Thái, Nhật, Singapoor, Ấn còn đó và không thể thế giới nhìn cộng lan vết dầu. Tây tạng: có thể vì người dân hiền hoà. Việt: không thể vì "giống da vàng này là vua đấu tranh". Sau nữa, Việt còn khối dân đang lang thang toàn thế giới.

Mịt mờ thật.

Trong mịt mờ, lang thang facebook. Gặp bài thơ hay. Ghi lại đây như những câu thơ tôi thích:

Những con đường không kịp nở những đóa hướng dương

Chở súng đạn ra ngoài mặt trận

Đấy bàn chân anh, người lính, đã không kịp về cho áo tím quấn chân mà phải vội chở ra ngoài mặt trận, những súng gươm của một thuở binh đao

Vòng thanh xuân đâu còn quay đều trong sân chơi

Thôi thì nhai chút giọng cười Cẩm Lệ

Ừ nhỉ, sân chơi đâu còn bóng dáng để tuổi xuân chầm chậm quay đều. Tôi ưa thích câu nhai giọng cười Cẩm Lệ. Thật tượng hình. Các bà mẹ Huệ vẫn nhai thuốc Cẩm Lệ!

Huế của ngày ấy bị trói thúc ké bằng những cuộn dây thép gai

Và bạo lực được viết bằng những nhát cuốc

Để câu mái đẩy khóc thành câu đứt ruột

Nước mắt khô chan trên mỗi mảnh đời

Huế, với câu hò mái đẩy. Tấn đưa vào thơ, quá đỗi tuyệt vời. Câu mái đẩy khóc thành câu đứt ruột.

Trải tuế nguyệt Huế hồi sinh như nếp nhăn già cỗi

Vẫn trầm mặc, cổ kính thiếp sương đêm

Huế chòm hõm chải tóc hương bồ kết

Gội đền đài thành quách rêu phong thành hoài niệm

Hơi hướng "điệu" với ngôn từ cổ kính. Nhưng Huế chòm hõm thì chao ơi, thật đẹp và nhớ làm sao. Tôi cũng một thuở, chòm hõm ngồi gội tóc. Cũng một thời hương bô kết ngát thơm. Chỉ có điều tôi giữ trong tim, những nhung nhớ, tôi kết thành hoài niệm. Tôi không gội đền đài thành quách như Huế của Ni Tấn, nơi đây soi giòng nước chỉ là tượng Nữ Thần Tự Do.

Chợ Đông Ba ai dời ra bãi dại

Để Huế buồn biền biệt tím mãi đâu.

Ái chà, mầu tím than của giòng Hương hai nhánh tóc, tôi có đây, mùa phượng tím mới vừa ươm.

Cám ơn lão, bài thơ buồn muốn chết! Nhưng tôi không khóc đâu lão à. Thơ của lão, chưa đủ làm tôi khóc. Lão hiền hoà như núi Ngự sông Hương, lão làm sao chở được những ngoan cường, những gào thét, sẽ xé lòng tôi nơi xứ lạ?

Nhưng cũng cám ơn lão, bài thơ Huế đáng yêu!

Hoàng Lan Chi

Posted in Linh Tinh | Leave a comment

Tháng 4-Gửi lại bài cũ- Nhìn Lại Thoáng Ngày Xưa ( vi ết vào 2011)- April 22, 2024

Hoàng Lan Chi

Nhìn Lại Thoáng Ngày Xưa

( Gửi lại bài viết vào 2011 cho các bạn mới cùng xem)

Hoàng Lan Chi viết: đã lâu rồi tôi ít viết. Tuổi già hạn chế nhiều thứ. Nhớ vài người bạn ở VA vào khoảng 2005, họ mail “ Chị Lan Chi, có bao giờ chị nghĩ sẽ gom những chương trình chị phỏng vấn rồi in sách không? Tôi nghĩ nên vì chị phỏng vấn rất hay”. Tôi ừ hử chứ rất lười cho dù sau này, vào khoảng 2013 thì phải, Chủ Nhiệm Thương Mại Miền Đông, Trần Mạnh Vũ, ngỏ ý in tặng 2000 cuốn Trò Chuyện với Lan Chi. Tôi, khi ấy, rất lười đọc lại, “edit” lại các bài phỏng vấn và để chuyện đó trôi đi. Bây giờ thì ô Vũ cũng “hết tiền in sách cho tôi rồi”! Còn bác Phó ( Phó TGĐ) Tổng Nha Kế Hoạch (thôi tôi làm chuuyên viên, 1971) , KS Trần Lương Ngọc, thì vào khoảng 2011 gì đó cũng muốn tôi viết thêm, kể thêm chuyện “quê hương một thời khốn khó” nhưng lu bu công việc tôi không viết nổi. Bây giờ thì lười lắm. Thôi thì gửi lại “Nhìn Lại Thoáng Ngày Xưa” mà 2011, bác Phó Trần Lương Ngọc rất thích.

Nhìn Lại Thoáng Ngày Xưa

Posted on July 16, 2011 by hang

Ra trường năm 71, tôi làm cho Tổng Nha Kế Hoạch ba tháng. Lúc đó ông Nguyễn Văn Hạnh là Tổng Giám Đốc. Sau này ông là Giám Đốc Văn Phòng Tị Nạn của chính phủ Hoa Kỳ. Cơ duyên bão Katrina xui khiến tôi gặp lại ông sau bao năm. Cũng từ Katrina mà văn phòng của ông cấp ngân khoản cho Ủy Ban Cứu người Vượt Biển BPSOS và đẩy đưa tôi có cơ hội phỏng vấn Ts Nguyễn Đình Thắng để rồi sau đó về Uỷ Ban này làm việc, phụ trách media.

Sau ba tháng làm chuyên viên Nha Phối Hợp Viện Trợ cho Tổng Nha Kế Hoạch, tôi trở về Khoa Học, tiếp tục cao học và sau đó làm cho Ban Vật LýĐịa Cầu (VLDC). Lúc bấy giờ, quy chế của chúng tôi chỉ là 12giờ/1 tuần nên thì giờ còn lại, chúng tôi thường dạy thêm ở các trường tư. Tất nhiên phải chừa giờ để học cao học. Hồi đó, tôi dạy Hoá lớp 10 cho các trường Đồng Tiến (gần chợ Trần Quốc Toản), Truờng Thống Nhất (nằm trong khuôn viên của Binh chủng Dù- khu Bảy Hiền), đôi khi dạy thế cho vị giáo sư nào đó- ở Nguyễn Bá Tòng hay vài trường khác…về môn Việt văn.

Tôi còn nhớ năm 1975, tình hình sôi động nhiều ngay từ đầu năm. Khi Ông Nguyễn Văn Hương lên làm tổng thống, chính phủ cho phép phụ nữ và trẻ con được xuất ngoại với điều kiện phải đóng tiền. Thuở ấy, một phần ngây thơ, một phần rất yêu quê hương nên đọc tin ấy, tôi thấy buồn lắm. Tôi không có ý tìm đường ra đi chút nào. Tôi còn nắm tay cậu em họ cùng tuổi, hiên ngang phán “Dù có ăn rau muống, quê hương vẫn là hơn“!

Tuy vậy, những ngày tháng tư, VC pháo kích nhiều. Mẹ tôi lo lắng. Anh chị em thì chỉ mới có bà chị cả có gia đình. Chồng chị là truởng phòng của Đài Truyền Hình Sài Gòn cũng tìm cách ra đi. Cậu em kế tôi cũng vậy. Tôi thì ngây thơ, cứ nghĩ rằng “Làm sao Mỹ bỏ rơi được miền Nam, tiền đồn chống cộng sản!”.

Ngày 20, chàng Hải Quân qua nhà và mẹ tôi bảo “Hay côđi với nóđi”. Tôi bĩu môi. Tôi không yêu anh ta, chả có lý do gì tôi phải đánh đổi cuộc đời mình để đi theo anh ta ra nước ngoài. Nhưng nghe anh ta dặn dò “Pháo kích nhiều quá, tối ngủ Quỳnh cẩn thận nhé’, tôi có chút xao xuyến.

Ngày 22, ở tư thục Đồng Tiến tôi mở đầu giờ dạy bằng:
-Các em đi được thì đi nhé. VC tàn bạo, không sống được đâu.

Ngày 25, tôi ở nhà. Ngơ ngác. Nghe radio, đọc báo và chẳng biết gì hết. Mình khờ, gia đình cũng khờ. Chị tôi vẫn chưa tìm được “tuyeau”. Em trai tôi cứ lang thang bến tầu rồi về.

Ngày 29, pháo kích nhiều hơn. Tâm trạng ở nhà khác, có vẻ yên tâm hơn ở nhà mình làm tôi chạy lên nhà chị ở đường Tự Đức. Thật khờ, đó là vùng cửa ngõ tiến vào Sài Gòn và ngay sát Đài Phát Thanh.

Trưa 30, nghe tin Dương Văn Minh đọc lệnh đầu hàng, tôi tuởng như mình nằm mơ. Bầu trời Sài Gòn lúc ấy đang nắng bỗng sầm tối trong chốc lát. Một giờ sau, tôi phụ chị đem tất cả quần áo quân đội, sách Anh Văn, hình ảnh, tất tật những gì dính líu đến Mỹ đem ra bỏ ngoài đường. Chung quanh mọi người cũng vậy. Tôi bôi sơn móng tay, cắt ngắn móng và trở về nhà ở Gia Định.

Trưa mùng 1, một cậu trong ban Vật LýĐịa Cầu đến nhà. Tôi ào ra mừng rỡ. Tưởng như trải qua một cuộc bể dâu rất lâu. Cậu nhắn tin thầy Nguyễn Hải bảo tôi vào trường trình diện ngày mai. Lúc đó tôi ngây thơ không biết. Sau này mới tỏ cậu ta gốc Bến Tre và bây giờ, cậu ta, Đặng Văn Liệt, đang là …Khoa Trưởng Khoa Lý của Đại Học Khoa Học Sài Gòn!

Mùng 2 tháng Năm, chúng tôi tụ tập trong sân trường. Bọn VC nằm vùng như La Thị Cang, giảng nghiệm viên cùng Ban VLDC với tôi, đang ở trong phòng của Uỷ Ban Quân Quản để ra các chỉ thị. Một số VC nằm vùng khác lộ mặt, đa số xuất thân từ Ban Địa Chất của Ô Trần Kim Thạch. Số VC nằm vùng này được hỗ trợ bởi bọn ‘ăn theo’ mà chúng tôi gọi là “Cách mạng Ba Lẻ Bốn”. Các phòng đều bị niêm phong. Có lẽ VC sợ mọi máy móc, tài sản bị phá huỷ chăng. Nhưng phải thừa nhận, y hệt cuộc cuớp chính quyền của Việt Minh năm 1945, tại Đại Học Khoa Học, VC nằm vùng chuẩn bị sẵn nên họ đã vãn hồi trật tự ngay từ những ngày đầu tháng Năm.

Chúng tôi ngồi nói chuyện ở sân trường chờ đợi đến phiên vào ghi danh.

Sau đó khoảng ít tháng, cái gọi là Uỷ Ban Quân Quản UBQQ của Khoa Học phổ biến việc học chính trị. Tôi còn nhớ, các giáo sư trung học (VC gọi là giáo viên) chỉ học vài tháng, còn chúng tôi phải học một năm. Tất cả các trường đại học của Sài Gòn tập trung học lý thuyết ở Đại Học Luật Khoa vì trường này mới xây, giảng đường khá lớn. (Sau này VC đổi là Đại Học Kinh Tế). Khi thảo luận tổ thì trường nào về trường đó.

Khi đi học, chúng tôi trở lại nghịch ngợm như thuở học trò. Đám chúng tôi lên lầu 2 và giỡn nhiều hơn học. Tuy vậy, tôi còn nhớ một lần cán bộ giảng như sau:
-Chúng ta phấn đấu để làm sao mỗi nhà có một loa!

Cả đám trên lầu chúng tôi phá ra cười. Nếu mỗi nhà có một loa chắc ..mọi người phát điên hết? Lập tức ngày hôm sau, Thành Uỷ phải cử một cán bộ khác đến giảng.

Tôi cũng nhớ, khi thảo luận tổ, tôi là người thắc mắc “Tại sao yêu nước lại là yêu xã hội chủ nghĩa?”. Vô lý quá, nước là thực thể ám chỉ quốc gia Việt Nam và tôi yêu quê hương tôi. Không dính líu gì đến cái gọi là chủ nghĩa cả. Chủ nghĩa chỉ là một chính thể áp dụng cho một quốc gia như chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa cộng sản. Tất nhiên VC còn nhiều cái ngu xuẩn và ngang nguợc khác mà tôi không muốn nhắc lại vì đã có quá nhiều người viết rồi.

Một lần trong giờ thảo luận tổ, tôi đã nghịch ngợm sửa dấu phẩy trong câu “Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ tâp thể” thành “Đảng lãnh đạo nhà nước, quản lý nhân dân, làm chủ tập thể”! Tuyệt vời, chỉ đổi cái dấu phẩy, khẩu hiệu của VC bị biến nghĩa nhưng là nghĩa đúng chứ không nguỵ nghĩa như VC rêu rao. Đó là đảng thâu tóm tất cả mọi thứ trong tay mình từ lãnh đạo nhà nước rồi quản lý nhân dân và kiêm luôn cả cái làm chủ tập thể! Nghe nói cũng có vài người khác, cùng “chí lớn” như tôi, cũng đổi vị trí dấu phẩy cho câu trên. Cũng như lúc đó chúng tôi rất thú vị với câu đối:

Nam Kỳ khởi nghĩa tiêu Công Lý
Đồng Khởi vùng lên mất Tự Do!

Sau một năm học chính trị, chúng tôi cũng được cấp cái gọi là “Chính Trị Mác Lê”. Ban Giám Hiệu, tên mới của bộ phận điều hành trường- trường cũng đổi tên là Đại Học Tổng Hợp (Văn Khoa bị sát nhập vào với chúng tôi và chỉ coi như cơ sở 2. VC không đánh giá cao những bộ môn như Văn Sử Địa và nhất là Triết.) – xét vào biên chế. Công nhân viên-cũng tên gọi mới, ở trong tình trạng hồi hộp…

Đích thân Hiệu Trưởng Lý Hoà mời tôi lên văn phòng vì tôi ở vào trường hợp khá đặc biệt: tôi tốt nghiệp Cử Nhân Hoá Hữu Cơ nhưng làm bên Ban VLĐC tức tréo cẳng ngỗng. Lý Hoà đề nghị tôi coi thư viện khoa lý. Tôi nhận lời gấp vì sau 75, tự nghĩ còn học hành gì nữa, thôi thì về một mình một cõi cho yên thân.

Mà một cõi thật vì sách giáo khoa của VC rất ít nên các “cán bộ giảng dạy” phải vào mượn sách nơi tôi. Cán bộ giảng dạy là tên mới gọi chung tất cả chúng tôi. Trước 75, Giáo sư đại học phải có bằng tiến sĩ quốc gia hay tiến sĩ đệ tam cấp. Còn dạy thực tập thì gọi là giảng nghiệm viên hoặc chưa vào ngạch giảng nghiệm viên thì gọi là nghiệm chế viên. Tôi ghét tên cán nào thì khi hắn mượn sách tôi bảo “Người khác mượn hết rồi!”. Hành xác hắn chừng hai, ba lần mới cho mượn! Còn với “phe ta” thì khỏi nói. Vào tận kho tha hồ lựa và tha hồ mượn, không giới hạn số lượng!

Tôi làm ở đây đến 1983 thì xin nghỉ với lý do gia đình, thực tế là nộp đơn xuất cảnh Úc do cô em chồng bảo lãnh.

32 năm trôi qua, giờ đây nhớ lại ngày ấy năm xưa mà lòng ngậm ngùi vô hạn. Bao tang thương dâu bể cho chúng tôi. Từ Giáo Sư Nguyễn Hải, Trưởng Ban Vật LýĐịa Cầu, Giám Đốc Hải Học Viện Nha Trang, “patron” của tôi, chết trên đường tìm tự do cùng hai con; đến anh bạn Huỳnh Kiêm Diên ban Hạt Nhân sau bao gian nan, đến được vùng đất hứa thì than ôi, năm 2006, anh bị du đãng Mỹ giết chết.

Nhóm Khoa Học, ban Lý chúng tôi giờ đây nơi đất khách quê người còn dăm mống, vẫn liên lạc với nhau qua e-mail, chia sẻ chút vui buồn đời tị nạn.

VÀI HÌNH ẢNH CŨ

Hoàng Lan Chi

2011

Posted in Linh Tinh | Leave a comment

Tin- Nhân viên viện dưỡng lão đánh đập cụ bà 93t -Con nào khôn n hất, Ai thích Minh Niệm; Nụ cười 61 tỷ; April 21,2024

MỘT SỐ TIN TỪ FACEBOOK HOÀNG LAN CHI

QUÝ BẠN NÀO THÍCH ÔNG NÀY

Trong nước có ông này, Minh Niệm. Ông là người từ Úc. Tôi không thích ô thầy này vì: ánh mắt coi sắc, dữ; Mặt không hiền hòa phúc hậu như thầy TPH, ông nàymê TCS, ông này hay ngồi giảng cứ như ổng là "Phật trên tòa sen cao" ( nhìn rất khó chịu), giọng điệu lời lẽ không ấm áp, hiền hòa mà "đanh giọng", nội dung nhiều khi nhuốm vẻ tự kiêu tự đắc

ThuyVi Le Mặt , Mắt Miệng đều bấm ra "sếch"

LanChi Hoang ờ há. nhận xét có vẻ đúng

Ha Nguyen Manh Chi có nhận xét đúng. Cách ngồi muốn cho giống Đức Phật Thích Ca, cũng như ông ba vàng, tạo dáng ngồi dưới gốc cây cho ghê gớm. toàn những loại Phật Gian cả thôi.

LanChi Hoang ghét nhất cái tướng ngồi. Khi nàoở chùa, thiền là khác. Ra ngoài thuyết pháp, phải nhũn nhăn chớ. Lão này chắc học đòi THích Nhất Hạnh ( đi tới đâu có võng lọng ở đó)

Ha Nguyen Manh … hiện nay chỉ thấy thầy TPH là dễ thương và gần gũi nhất, có cốt cách chân tu thật sự. Em không phải là tín đồ Phật Giáo nhưng rất kinh trọng thầy Pháp Hoà qua thái độ bình dân của một bậc chân tu, hiền hòa và đầy lòng nhân ái.

An Phước Giọng nghe ko ân cần , đanh , …. Nhiều cảm giác khó tả lắm ….
LanChi Hoang
An Phước nhiều khi cô có cảm tưởng giả dối nữa. Không biết tại sao.

Con nào khôn nhất- LM Phạm Quang Hồng

https://www.youtube.com/shorts/JG704Sk3Kps

Không có ý voi, ý chuột, ý chó mà ai củng hỏi ý kiến !!!

CAREGIVER ĐÁNH CỤ GIÀ, CÓ THỂ BỊ TÙ CHUNG THÂN

Michigan. Người nhà thấy cụ 93 tôi có vết bầm. Họ bí mật gắn camera. Mới thấy carer này đánh đập tàn nhẫn, dùng tã xiết cổ.

Có thể người này bị tù chung thân

Posted in Linh Tinh | Leave a comment